Tìm Kiếm

24 tháng 6, 2014

Saints Peter And Paul, Apostles: At The Mass During The Day (June 29, 2014)

First Reading (Acts 12:1-11)
A reading from the Acts of the Apostles
In those days, King Herod laid hands upon some members of the Church to harm them.
He had James, the brother of John, killed by the sword,
and when he saw that this was pleasing to the Jews
he proceeded to arrest Peter also.
–It was the feast of Unleavened Bread.–
He had him taken into custody and put in prison
under the guard of four squads of four soldiers each.
He intended to bring him before the people after Passover.
Peter thus was being kept in prison,
but prayer by the Church was fervently being made
to God on his behalf.

On the very night before Herod was to bring him to trial,
Peter, secured by double chains,
was sleeping between two soldiers,
while outside the door guards kept watch on the prison.
Suddenly the angel of the Lord stood by him
and a light shone in the cell.
He tapped Peter on the side and awakened him, saying,
“Get up quickly.”
The chains fell from his wrists.
The angel said to him, “Put on your belt and your sandals.”
He did so.
Then he said to him, “Put on your cloak and follow me.”
So he followed him out,
not realizing that what was happening through the angel was real;
he thought he was seeing a vision.
They passed the first guard, then the second,
and came to the iron gate leading out to the city,
which opened for them by itself.
They emerged and made their way down an alley,
and suddenly the angel left him.
Then Peter recovered his senses and said,
“Now I know for certain
that the Lord sent his angel
and rescued me from the hand of Herod
and from all that the Jewish people had been expecting.”

Bài đọc I (Cv 12:1-11)
1 Thời kỳ ấy, vua Hê-rô-đê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh.
2 Nhà vua đã cho chém đầu ông Gia-cô-bê là anh ông Gio-an.
3 Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. 4 Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng.
5 Đang khi ông Phê-rô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
6 Trong đêm trước ngày bị vua Hê-rô-đê đem ra xử, ông Phê-rô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh.
7 Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phê-rô, đánh thức ông và bảo: "Đứng dậy mau đi!" Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông. 8 Thiên sứ nói tiếp: "Thắt lưng lại và xỏ dép vào!" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!"
9 Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. 10 Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. 11 Lúc ấy ông Phê-rô mới hoàn hồn và nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu."

Responsorial Psalm (Ps 34:2-3, 4-5, 6-7, 8-9)
R. The angel of the Lord will rescue those who fear him.
R. Thiên Thần của Chúa xây dựng đồn lũy quanh kẻ kính sợ Người.

I will bless the LORD at all times; his praise shall be ever in my mouth. Let my soul glory in the LORD; the lowly will hear me and be glad. R/
Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. R/

Glorify the LORD with me, let us together extol his name. I sought the LORD, and he answered me and delivered me from all my fears. R/
Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã kiếm tìm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. R/

Look to him that you may be radiant with joy, and your faces may not blush with shame. When the poor one called out, the LORD heard, and from all his distress he saved him.
Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhậm lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. R/

The angel of the LORD encamps around those who fear him, and delivers them. Taste and see how good the LORD is; blessed the man who takes refuge in him. R/
Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người. Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người! R/

Second Reading (2 Tim 4:6-8, 17-18)
A reading from the second Letter of Saint Paul to Timothy
I, Paul, am already being poured out like a libation,
and the time of my departure is at hand.
I have competed well; I have finished the race;
I have kept the faith.
From now on the crown of righteousness awaits me,
which the Lord, the just judge,
will award to me on that day, and not only to me,
but to all who have longed for his appearance.

The Lord stood by me and gave me strength,
so that through me the proclamation might be completed
and all the Gentiles might hear it.
And I was rescued from the lion’s mouth.
The Lord will rescue me from every evil threat
and will bring me safe to his heavenly Kingdom.
To him be glory forever and ever. Amen.

Bài đọc II (2 Tm 4:6-8, 17-18)
6 Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi.
7 Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.
8 Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện. 17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. 18 Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.

Gospel (Mt 16:13-19)
When Jesus went into the region of Caesarea Philippi
he asked his disciples,
“Who do people say that the Son of Man is?”
They replied, “Some say John the Baptist, others Elijah,
still others Jeremiah or one of the prophets.”
He said to them, “But who do you say that I am?”
Simon Peter said in reply,
“You are the Christ, the Son of the living God.”
Jesus said to him in reply, “Blessed are you, Simon son of Jonah.
For flesh and blood has not revealed this to you, but my heavenly Father.
And so I say to you, you are Peter,
and upon this rock I will build my Church,
and the gates of the netherworld shall not prevail against it.
I will give you the keys to the Kingdom of heaven.
Whatever you bind on earth shall be bound in heaven;
and whatever you loose on earth shall be loosed in heaven.”

Phúc âm (Mt 16:13-19)
13 Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" 14 Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ."
15 Đức Giê-su lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? "
16 Ông Si-môn Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống."
17 Đức Giê-su nói với ông: "Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.
18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.

19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy."