Tìm Kiếm

28 tháng 1, 2014

Song of the Week: Feast of the Presentation of the Lord (February 2, 2014)

Entrance: Sing to the mountains (EM #139) 


Responsorial:  Our Blessing Cup (EM #144)


Offertory: Only a shadow (EM #196)



Communion: Hail, Holy Queen (EM #286)

23 tháng 1, 2014

III Sunday in Ordinary Time A (January 26, 2014)

A.    Introduction
a)     To the Holy Mass
Dear Sisters and Brothers,
Good morning!
Welcome to Saint Dominic’s Parish Church for the Sunday Holy Mass celebration.  The message of the readings from the Holy Bible this Sunday tells us about Our Lord Jesus Christ’s preaching of the Good News of salvation.  We need to repent of our wrongdoings to be worthy of God’s Kingdom.  Unity among believers in Christ is clearly the sign of those already saved from evil consequences of sin such as rivalries, pride, hatred and division.
Please all stand to join in the singing of the entrance hymn.
 

b)    To the Readings
-          First Reading Is 8:23-9:3
Without the light of divine wisdom, people walk in the darkness of error, fear and death.  Once brought to the radiance of God’s saving truth they find the way to life ever happy and everlasting.
-          Second Reading 1 Cor 7:10-13
Unity among Christians has been so vital for the Church founded by Christ since the early times that Saint Paul urges us to fight against all forms of division no matter what reason they could have to justify their failure in living up to the Lord’s burning desire that His disciples be one as the Father and the Son are one.    

B.    Hymns for Holy Mass
a) Entrance: Sing A New Song (EM#137)
b) Offertory: Where There is Love (EM#116)
c) Communion: O Beauty, Ever Ancient (EM#248)
d) Recessional: Prayer of St. Francis (EM#245)

Nói Chuyện Ngựa Năm Ngọ

Ngựa là một trong sáu con vật thân yêu rất gần gũi với người . Ngựa nổi tiếng từ cổ đến kim, suốt Đông sang Tây vì những gắn bó mật thiết với nhân loại . Ngựa là phương tiện giao thông hữu hiệu khi xe cộ tàu bè, phi cơ chưa được phát minh . Trong chiến tranh cổ điển, đoàn Kỵ Binh của La Mã, Ai Cập, Á Rập, Hung Nô, Mông Cỗ đã dẫm nát khắp nơi trên trái đất . Người Trung Hoa, Việt Nam đã sớm biết lợi dụng ngựa trong các chiến pháp, nổi tiếng nhất là Kỵ Mã Liên Hườn Giáp Trận của Hô Diên Chước thời Mạt Tống (Lương Sơn Bạc) . Bao nhiêu Chiến Mã Đông Tây đã đi vào huyền sử như con ngựa thành Troy (La Mã), ngựa sắt của đức Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương (Việt Nam), Ngựa Xích Thố, Thanh Long, Thoại Phong Câu, Kim Long, Ô Chùy …của các danh tướng cổ Trung Hoa như Quan Công, Nhạc Phi, Tiết Nhơn Quý, Hạng Võ …

            Ngựa là con vật rất hiền lành, trung thành với chủ và vô cùng khôn ngoan . Trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng có kể chuyện người Mường và con ngựa khôn ngoan của Y đủ chứng minh đức tính tốt của ngựa . Ngoài ra người đời còn lợi dụng ngựa để ăn thua đỏ đen với nhau, các trường đua Quốc Tế, trường đua Phú Thọ (Sài Gòn), hằng ngày chứng kiến bao cảnh Hỉ, Nộ, Ái, Ố của kẻ tham vướng cờ bạc . Trong cuộc chiến VN, các nhà thầu thường toa rập với Cục mãi dịch đem thịt ngựa già tráo thịt bò, trâu cung cấp cho các quân trường và Trung Tâm Huấn Luyện . Xe ngựa, xe tứ mã nhan nhản khắp nơi ở VN, vừa đỡ chân vừa tiêu khiển rất đa dạng .

Ngựa Phi Đường Xa (Lê Yên) - Ban Hợp Ca Thăng Long

Nghe Ngựa Phi Đường Xa (Vũ Linh & Ngọc Huyền)

1-NGỰA TRONG VĂN CHƯƠNG VÀ ĐIỂN TÍCH :

            -Ngựa Trong Lãnh Vực Văn Chương Chữ Nghĩa : 

Tiếp xúc với con người từ thời tạo thiên lập địa, rồi cả hai cùng đồng hành song bước qua khắp các chặng đường thời gian, cho nên không có ai lấy làm ngạc nhiên, khi thấy tên ngựa hiện hữu đầy rẫy trong kho tàng văn chương chữ nghĩa của nhân loại

*Trong từ ngữ : Ngựa gỗ, ngựa Hồ, ngựa người (danh từ phát xuất trong thời Pháp thuộc, chỉ những người kéo xe và hạng gái giang hồ), ngựa kỳ-ngựa ký chỉ những người có tài rút từ câu “ Kỳ ý tự quân nan phục linh”, ngựa truy phong, ngựa sắt (nói về Phù Đổng Thiên Vương), ngựa Tiêu Sương, vó câu, kỵ mã, quân mã, mã lực, mã hồi, mà đề, mã phu …
*Thành ngữ & Tục ngữ : Đầu trâu mặt ngựa, được đầu voi đòi đầu ngựa, mồm chó vó ngựa, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ, ngựa quen đường cũ, thẳng như ruột ngựa, ngựa chạy có bầy-chim bay có bạn, ngựa hay lắm tật, ngựa Hồ chim Việt, ngựa hưu thay đổi, ngựa le te cũng đến bến giang …

             Ngựa được nhắc nhở thường xuyên trong các tác phẩm văn học . Căn cứ vào đặc tính lông bờm của ngựa và những đặc thù khác của cơ thể nó như mặt, ruột …người ta thường nói ví như : Mặt dài như mặt ngựa, nói thẳng ruột ngựa, tứ mã nan truy, ngựa quen đường cũ, đồ ngựa, đầu trâu mặt ngựa …
Nhiều hình ảnh Ngựa có mặt trong thơ văn cổ của Bạch Cư Dị (722-816), Cao Bá Quát (1808-1855), Đỗ Phủ (712-770), Ngô Thời Nhậm (1746-1803), Nguyễn Du (1766-1820) ..nhưng thích thú nhất là khẩu chiến giữa ngựa và những con vật thân thương khác, sống cạnh con người như trâu, chó, dê, gà, lợn trong tác phẩm “Lục súc tranh công” .

                        “…Bồ đào mỹ tửu dạ lương bôi
                        Dục ẩn tỳ bà, mã thượng thôi …”
                                    (Lương Chân Tử”

                        “Đường mây, vó ký lần lần trải
                        Ải tuyết cừ mao, thức thức pha …”
                                    (Nguyễn Biểu)

                        “Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn
                        Dòng nước sâu, ngựa nãn chân bon
                        Ôm yên gối trống đã chồn …”
                        Từ chàng dong ruỗi mấy niên
                        Chẳng nơi hãn hải thì miền tiêu quan …”
                                    (Chinh Phụ Ngâm Khúc)

                        “kéo cờ lũy, phát súng thành
                        Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài …”
                                    (Kiều)

                        “Đàn năm cung, réo rắt tính tình dây
                        Cờ đôi nước, rập rình xe ngựa đó
                                    (Nguyễn Công Trứ)

            -Ngựa Trong Thành Ngữ và Điển Tích :

            *CẦU XE NGỰA : Chỉ quyết tâm, dựa theo tích Tư Mã Tương Như đời Hán, lúc còn hàn vi vào Tràng An, qua một chiếc cầu, ghi vào đó hàng chữ, nếu không thành công thề không trở lại cầu này .

            *DA NGỰA BỌC THÂY : Nói lên cái chí của người trượng phu, nam tử, thề chết trên yên ngựa ngoài chiến trường, chứ không như bọn trí thức dỏm, gục trên giường đàn bà . Điển tích trên lấy từ Hậu Hán Thư Mã Viện . Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc cũng có viết : Chí làm trai dặm ngàn da ngựa, gieo thái sơn nhẹ tợ hồng mao” .

            *NGỰA ĐÁ : Sau khi Hưng Đạo Vương dẹp yên được giặc Nguyên, vua tôi trở về kinh thành Thăng Long . Khi viếng Hoàng Lăng, Vua Trần Nhân Tông để ý hai hàng ngựa đá đứng chầu nơi lăng tẩm, chân con nào cũng lấm bùn đất, Ngài nghĩ rằng : “Anh linh của các vị Tiên đế đã cỡi ngựa đá theo giúp mình nên mới được thành công” . Ngài phán :
                        “Xã tắc hai lần nhọc ngựa đá
                        Núi sông ngàn thuở vững chân vàng .

            *NGỰA HỒ trong tích HOA LƯU HƯỚNG BẮC :
            Tiêu Hậu bên Bắc Phiên có một danh mã tên gọi Tiêu Sương Nhật Nguyệt Mã, Vua Tống Chơn Tông nghe thấy muốn bắt đem về cỡi . Mạnh Lương là thuộc tướng của Dương Gia Trại, lanh lợi và thông thạo các ngôn ngữ Phiên Bang nên được phái đi bắt ngựa đem về . Ngựa Hồ từ khi về Hán, bỏ ăn uống bảy ngày đêm, chỉ hướng về đất Bắc hí hoài đến kiệt sức lăn ra chết . Loài vật còn biết nghĩ đến nước non, quê hương xứ sở, hà huống gì con người : Tích này hay được kể với truyện Việt Điểu Quy nam cũng đồng ý nghĩa như trên .

            *NGỰA TÁI CÔNG : 
            Tái Thất Ông có một con ngựa tự nhiên bỏ đi, người bạn đến chia buồn, ông bảo : “Biết đâu là phước đó” . Vài hôm ngựa cũ về dắt theo một bày ngựa mới, hàng xóm lại đến chia vui, ông bảo : “Biết đâu là họa đó” . Con trai ông thấy nhà có nhiều ngựa nên cỡi chơi bị ngựa quăng gãy chân, hàng xóm lại đến chia buồn, ông bảo : “Biết đâu là phước đó” . Quả nhiên về sau giặc tràn vào làng, bắt thanh niên đi lính cho chúng, con ông vì gãy chân nên khỏi, ai cũng khen là phước .
                        Cụ Huỳnh Thúc Kháng Viết :
            “Kìa tụ, tán chẳng qua là tiễn biệt
            Ngựa Tái Ông họa phước biết về đâu ?”

            *NGỰA TRE : 
            Quách Cấp làm quan đời Hậu Hán, thanh liêm chính trực, trước làm Thứ Sử Ích Châu rồi đổi đi xa, nay được trở về chốn cũ . Nam phụ lão ấu trong thành, cỡi ngựa tre ra tiếp rước vị quan tốt 

            *MANH NHÂN HẠT MÃ :   
Thành ngữ trên ám chỉ những người mù quáng, hồ đồ hành động vì lợi nên thiếu suy xét, rốt cuộc phải bị thất bại, rút từ điển tích Cố Khải Chi đời Tấn kể : “Một người mù cỡi con ngựa đui, nửa đêm lạc đến ao sâu nên cả hai đều gặp nguy hiểm .
            “Manh nhân kỵ hạt mã
            Bán dạ lâm thâm trì”

              *MÃ TIỀN BÁT THỦY :
Thành ngữ Trung Hoa đồng nghĩa với câu của ta : “Bát nước đổ xuống đất không hốt lại được” . Nói về một lầm lỗi không tha thứ được, theo tích Chu Mãi Thần đời nhà Hán, ham học nên không làm ăn gì cả, vợ chán cảnh đói nghèo nên ly dị . Sau Mãi Thần nhờ người tiến cử lại đánh giặc có công nên được phong chức Thái Thú Cối Kê là quê hương của ông . Vợ cũ hay tin tìm đến xin nối lại tình xưa, Mãi Thần đem một bát nước đầy đổ trước đầu ngựa và bảo người vợ cũ nếu hốt lại đầy bát thì chấp nhận, vợ hổ thẹn tự tử chết . Qua thành ngữ trên, Nguyễn Công Trứ đã viết :
“Khó ai bằng Mãi Thần, Mông Chính
Còn có khi ngựa cỡi dù che”

                *PHONG MÃ NGƯU, BẤT TƯƠNG CẬP :
Thành ngữ nói về tình trạng 2 sự việc song hành không liên quan gì cả dựa theo điển tích trong tả truyện : “Tề Hoàn Công đem quân đánh Thái, tiện đường tấn công luôn nước Sở . Vua nước Sở sai sứ đến trách : “Tề phương Bắc, Sở phương Nam, không liên đới gì cả sao lại gây cuộc binh đao ?” Nguyên văn : “Qua xử Bắc Hải, Quả Nhân xử Nam Hải, duy thị phong mã ngưu bất tương cập dã” . Nguyễn Công Trứ dựa theo điển tích trên viết :
“Rượu và sầu như gió, mã, ngưu”

                 *LÃO MÃ THỨC ĐỒ :
Thành ngữ dựa vào điển tích thiên phú của loài ngựa nhất là ngựa già biết nhận rõ phương hướng tìm về đường cũ khi bị lạc lối, ngoài ra cũng để ám chỉ kinh nghiệm của người từng trải, hiểu biết rõ về mọi vấn đề . Thành ngữ rút từ điển tích trong Hàn Phi Tử Truyện : “Tề Hoàn Công đem quân cứu Yên, đánh nước Cô Trúc (nay thuộc Nhiệt Hà, Hà Bắc) bị giặc làm kế dụ vào vùng Hãn Hải (sa mạc hoang vu), nhờ Quảng Trọng dâng kế, bắt lão mã thả cho chúng tự do đi lại, quả nhiên bầy ngựa già tìm lại được đường cũ . Thành ngữ trên hoàn toàn khác nghĩa với câu của ta : “Ngựa quen đường cũ” vì câu này hàm ý tả tật xấu của người đời, quen làm chuyện trái không thể bỏ được .

                 *THANH MAI TRÚC MÃ :
Thành ngữ nói về tình bạn của nam nữ khi còn thơ ấu, đồng nghĩa với câu của Việt Nam “Bạn từ thuở còn để chỏm”, dựa vào bài thơ của Lý Thái Bạch đời Đường viết để diễn tả tình bạn thắm thiết của cặp thiếu niên nam nữ :
“Lang kỵ trúc mã lai
Nhiên sáng lập thanh mai”
Nghĩa là lấy tre làm ngựa cỡi, dùng cành mai xanh làm roi ngựa, múa cành mai xanh cỡi ngựa tre chạy quanh giường . Tóm lại “Thanh Mai trúc Mã” chỉ tình bạn trai gái thân thiết thời niên thiếu .

                 *CHỈ LỘC VI MÃ :
Thành ngữ này đồng nghĩa với câu : “Chỉ lộng thành chơn” nói về trường hợp đã biết rõ sự thật mà vẫn cố tình bưng bít, xuyên tạc bóp méo sự thật để lừa bịp kẻ khác . Thành ngữ căn cứ vào điển tích của Tư Mã Thiên : “triệu Cao âm mưu soán đoạt nhà Tần nhưng trước khi hành động, muốn thử xem lòng người thế nào, mới bắt một con hưu đem đến trước nhà vua và các quan bảo đó là con ngựa, mọi người kể cả nhà vua vì sợ bị giết nên đều nói đó là con ngựa .

                 *ĐỔI MỸ NHÂN LẤY NGỰA :
Thi hào Tô Đông Pha đời Tống  vì bất đồng chính kiến với Tể Tướng Vương An Thạch nên bị đày đi Hàng Châu . Bạn đồng liêu muốn đem con ngựa quý để đổi lấy nàng hầu xinh đẹp của TĐ Pha và hai người thỏa thuận cuộc trao đổi . Cô Xuân Hương tên người hầu, tức tủi vì bị sỉ nhục nên bảo với hai người : “Ngày xưa vua Tề cảnh Công mất ngựa muốn chém tên Mã phu, Tể Tướng Án Anh can ngăn : “Chuồng ngựa của Đức Khổng Phu Tử bị cháy, ngài chỉ hỏi có ai bị thương mà thôi mà không hề hỏi ngựa . Ấy người xưa trọng người khinh vật, nay Tô Học Sĩ trọng vật khinh người thì còn sống làm gì ?” Nàng nói xong đập đầu vào bệ đá chết, hai người nhìn nhau hối hận thì đã muộn rồi .

                   *MÃ ĐẦU CẦM :
Điển tích nói về một thứ đàn có khắc đầu ngựa của người Mông Cổ chuyên đi hát dạo . Tiếng hát nỉ non hòa với điệu đàn trầm bổng thê lương áo não khiến cho người nghe không cầm nổi nước mắt .
Mã Đầu Cầm được người Mông cổ gọi là “KHILKHEUA” là một dụng cụ âm nhạc gồm có một thùng đàn hình thang bằng gỗ, cần đàn thật dài trên đầu có khắc đầu ngựa .
Mã Đầu Cầm là một thiên tình sử của người Mông, tả lại trạng thái hỉ nộ ai oán của con người như sáu câu vọng cổ của ta . Điển tích kể rằng về phương Bắc nước Ngoại Mông có một Thiên Miếu gọi là “Bog Do kura” thờ thượng đế, chung quanh miếu là đồng cỏ tốt, thỉnh thoảng có 8 con ngựa đến ăn cỏ . Dẫn đầu đoàn ngựa trên là con Thiên Lý Mã gọi là “Jonung Khara Mori” ngày đi ngàn dậm, chủ bầy ngựa là Nhị Thập Tứ vì sao trên trời xuống thế biến thành người dạo chơi và trở về cõi thiên khi trời hừng sáng 

Vị chỉ huy trong 24 vì sao, một hôm cỡi con Thiên Lý Mã dạo chơi gặp được một thiếu nữ trần gian, hai người yêu nhau tha thiết . Người con gái vì muốn giữ lại người yêu vĩnh cữu với mình nên đêm đến lén cắt 4 cánh nhỏ nơi bốn vó ngựa con Thiên Lý Mã khiến chàng không thể về trời được mà cũng chẳng quay lại chốn cũ với người yêu vì con Thiên Lý Mã đã gục chết nơi miền sa mạc hoang vu . Buồn rầu tuyệt vọng chàng trai ôm ngựa khóc, nước mắt nhỏ xuống mình ngựa biến thành cây đàn, đầu ngựa là đầu đàn và đuôi ngựa là những cung bậc trầm bổng . Chàng khẻ lướt qua dây đàn và cất tiếng hát ai oán, não nùng thương cho đời mình và người yêu bị cách chia vĩnh viễn .

2-NGÀN LẼ MỘT ĐÊM CHUYỆN LẠ VỀ NGỰA :

            -Vui Buồn Đời Mã Trạm : Ngựa có tài phi nước kiệu, phương tiện chuyển vận giao thông hữu hiệu nhất khi chưa có máy bay, xe cộ, tàu bè . Kỷ lục vận tốc của ngựa có thể đạt tới 60km/ giờ . Riêng giống ngựa chiến Ả Rập có thể nện vó câu liên tục trên quãng đường dài 250km, suốt ngày đêm trong điều kiện khó khăn mà không cần phải ngơi nghỉ . Do các yếu tố trên, ngựa được sử dụng khắp nơi trên thế giới, để chuyển thư, công văn và thông tin liên lạc . 

            Tại VN, bưu chính đã có từ thời nhà Lý, nhưng phát triển mạnh mẽ khi Vua Gia Long thống nhất sơn hà, song song với sự hoàn thành con đường quan lộ từ Ải Nam Quan tới tận Mũi Cà Mâu . Riêng về hình thừa mã trạm, nước ta đã thực hiện từ thế kỷ thứ 9 sau TL, ngay khi Ngô Vương Quyền chính thức đem lại nền tự chủ cho dân tộc vào năm 939 . Mã trạm bao gồm ngựa và người cỡi ngựa, còn gọi là điếm binh, nai nịt rất gọn gàng, chân quấn xà cạp, đeo lục lạc tại thắt lưng hay cổ tay, đầu đội nón chóp, vai đeo những ống công văn được niêm phong cẩn mật được gọi là cán ống, còn giấy tờ công văn thượng khẩn thì gọi là công văn nhựt dạ . Khi cần thi hành một công tác cần kíp tối hệ trọng, ngựa trạm được trang bị một lục lạc quấn quanh ức, thêm một cái chuông nhỏ treo dưới cổ và trên đầu ngựa cấm một túm lông gà hay một lá cờ nhỏ làm hiệu lệnh để mọi người tránh đường . Riêng điếm binh tay cầm cương ngựa, tay khác cầm vật đựng than đỏ hoặc ngọn đuốc cháy ra dấu hỏa tốc, thượng mã phi đệ . Tóm lại làm nghề Mã Trạm thời xưa, trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt của hoàn cảnh, buồn vui lẫn lộn . Vui khi ỷ thế được ưu tiên, tác oai tác quái với thiên hạ nhất là trước các cô gái quê nhu mì chất phác, còn buồn thì nhiều không kể, khi một người một ngựa giữa cảnh cheo leo đèo heo hút gió, đối mặt với gió núi mưa rừng, kể cả thú dữ và giặc cướp . Thương cho người lữ hành cô độc, mang trên mình tin tức khẩn thiết có liên hệ tới vận mệnh quốc gia, người đời đã viết : “Xót người hành dịch bấy nay, dặm xa thêm mỏi, ống đầy lại vơi ..”

            -Nhịp Ngựa Hoa Vàng : Theo Tiến sĩ Joseph Needham, giáo sư chuyên nghiên cứu về nước Tàu, thì chính người Trung Hoa là dân tộc đầu tiên trên thế giới đã phát minh và chế tạo nhạc khí, công cụ, dụng cụ và phụ tùng trên mình ngựa, vào thời đại đồ đồng . Chiếc xe ngựa cũng được ra đời từ đó, để trở thành phương tiện chuyên chở hữu hiệu nhất cho tới ngà nay . Qua các di vật khảo cổ, ta nhìn thấy được chiếc xe thổ mộ đầu tiên của nhân loại do ba con ngựa kéo ra đời trong khoảng thời gian giữa thế kỷ thứ 4-1 trước Tây Lịch . Trong một bức tranh khác vẽ từ đời Hán, hình một chiếc xe ngựa với 2 chỗ ngồi, chiếc xe có mui nhưng còn thô sơ . Riêng trên mình ngựa đã có bộ thắng, căn cứ vào các di vật và tài liệu tìm thấy, các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng, chính người Trung Hoa đã sáng chế ra bộ thắng ngựa có ách vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước Tây Lịch, còn Châu Âu mãi tới thế kỷ thứ 10 sau TL, mới thấy sử dụng bộ thắng ngựa . Một khám phá lý thú khác về cái bàn đạp và yên ngựa cũng do người Trung Hoa sáng tạo ra . Điều này cho thấy sự lao đao của các kỵ sĩ thời cổ đại, trong các đoàn quân viễn chinh của Ba Tư, Mède, La Mã, Assayrie, Ai Cập, Babylone, Hy Lạp …ngồi trên ngựa không có yên và bàn đạp . Đến thế kỷ thứ 3 sau TL, người Hán đã đạt được kỹ thuật luyện kim, nên làm thành những chiếc bàn đạp ngựa bằng kim loại rất đẹp . Sau này, chính đoàn quân viễn chinh của bộ tộc Avars miền Trung Á, khi xâm chiếm Âu Châu, đã phổ biến các phụ tùng do người Tàu phát minh trên ngựa . Như Hoàng Đế Byzance là Fiavius Mauricius viết trong tác phẩm “luận bàn Về Chiến lược Năm 580 sau TL” thì bàn đạp, yên ngựa mới chính là yếu tố quan trọng nhất của Kỵ binh .

            - Xe Thổ Mộ Tại Sài Gòn và Nam Kỳ Lục Tỉnh : “…Một con ngựa gầy vào thành phố, trên lưng chở mùa xuân hoa vàng …”câu thơ của ai đó, làm ta bâng khuâng hồi tưởng về một thời xa cũ tại Sài Gòn, Phan Thiết ..qua hình ảnh con ngựa gầy, kéo chiếc xe cũ kỹ, gõ đều nhịp lóc cóc trên đường phố, chơ vơ lạc lõng giữa dòng xe cộ, nơi những ngã tư ngã sáu mù mịt khói xe . Những chiếc xe ngựa chở đầy hoa, từ các nẻo ngoại ô vào phố thị, khác nào bầy én trên bầu trời bao la, mang tin xuân về nhân thế . Đây cũng là phương tiện giao thông cuối cùng của một thời vang bóng, ròi cũng sẽ trôi vào quên lãng như ông đồ già và nghiên mực tàu, giấy đỏ . 

            Xe ngựa mà người miền Nam quen gọi là xe thổ mộ xuất hiện tại VN vào thời Pháp thuộc, chỉ thông dụng tại Sài Gòn, miền Đông và miền Trung trở ra  Trước kia tại thủ đô, xe ngựa hoạt động rộn rịp nhất là vùng Đức Hòa, Hóc Môn, Bà Điểm, hằng ngày chở hoa quả, cau trầu và bạn hàng tới các chợ Gia Định, Bình Tiên, Cầu Ông Lãnh . Từ sau năm 1954, xe ngựa chỉ còn được phép giao thông từ Bình Tiên tới Cầu Ông Lãnh và bến chánh tại một khu đất trống gần Ga Xe Lửa Sài Gòn . Cũng có một con đường tại Tân Định mang tên Mã Lộ . Tư khi xe ngựa du nhập vào VN, dân ta đã học được nghề đóng móng ngựa .

            -Đua Ngựa, Thú Tiêu Khiển Của Người Sai Gòn : Sau khi chiếm được Sài Gòn và Lục Tỉnh vào năm 1867, người Pháp đã bỏ công sức để kiến thiết và mở mang Bến Nghé, từ một chốn hoang dã thành Hòn ngọc Viễn đông ngay từ đầu thế kỷ thứ 20 . Đồng thời cũng để đầu độc các thế hệ thanh niên VN quên lãng nỗi nhục mất nuóc, người Pháp cũng biến nơi này thành chốn ăn chơi sa đọa, cờ bạc, đĩ điếm công khai . Một trong những thứ tứ đổ tường làm nhiều người tan nhà nát cửa là đua ngựa . Môn cờ bạc này xuất hiện đầu tiên tại Sài Gòn năm 1906 do Pháp kiều Jean Duclos khởi xướng khi mang 8 con ngựa đua giống Ả Rập từ Hà Nội vào Sài Gòn . Từ đó trò chơi đánh cá bằng tiền diễn ra hằng ngày tại trường đua ngựa, tọa lạc trên một khu đất cao vùng Phú Thọ Hòa . Điều nực cười là thế cuộc cứ liên tục xoay vần dời đổi, người Sài Gòn và Lục Tỉnh qua từng thế hệ tán gia bại sản vì mê đua ngựa, thế nhưng môn cờ bạc này vẫn hiên ngang như diều gặp gió, hết Tây tới Tàu, Quốc Gia rồi Cộng Sản, rốt cuộc kinh doanh đỏ đen càng phát triển hơn trước .

Từ trước tới nay quận Đức Hòa (Hậu Nghĩa), là nơi cung cấp những ngựa đua và nài ngựa. Nhiều con ngựa đua và nài ngựa đã đạt được nhiều thành tích trên trường đua, tới nay vẫn còn được nhiều người nhắc nhớ như Huỳnh Long, Bảo Thành, Tân Long, Mã Thượng..với các bậc thầy nái ngựa như Hai Mái, Út Mãnh, Hiện Đức Hòa có trên 1000 con ngựa đua tập trung tại các xã Mỹ Thạnh, Đức Lập Thượng, Hòa Khánh Đông.

              -Những con Ngựa Thượng Tứ : Ở Huế hồi trước hay bây giờ, những cô gái có tính tình không tử tế, thường bị các bà mẹ sĩ vã “ là những con Ngựa Thượng Tứ “. Căn cứ vào các tài liệu còn lưu trữ, ta biết vào thời vua Minh Mạng triều Nguyễn, triều đình Huế có một cơ sỡ chuyên về Ngựa gọi là Mã Khải đặt tại phường Ninh Mật, sau đổi thành Huệ An, nằm bên trong cửa Đông Nam kinh thành Huế.Sở này gồm 20 toán Khinh Kỵ và Phi Kỵ, chỉ dành phục vụ cho vua mà thôi. Những con ngựa đặc biệt này mang tên là Thượng Tứ. Nhưng “ Thượng Tứ “ lại là cái tên mà các bà mẹ dùng để chê biếm chính con gái mình, những đứa “ vô tích sự “ chỉ biết ăn rồi cà nhỏng phất phơ ngoài đường phố, gây nhiều buồn phiền cho gia đình.

Tại Huế xưa nay không không biết tới cửa Thượng Tứ nhưng mấy ai biết Thượng Tứ lại là tên của một loại ngựa dành cho nhà vua nhà Nguyễn.

                -Trảm Mã Trà : Là một loại trà đặc biệt, chỉ dành cho vua chúa và hoàng gia Trung Hoa thời phong kiến. Những người giàu có, giới thượng lưu cũng không thể uống nổi loại trà quý hiếm này vì rất tốn kém và cách pha chế lại cầu kỳ khó khăn, nên đã dùng loại trà “ Bạch Mao Hầu “ trên dãy Vu Di Sơn tại tỉnh Phúc Kiến thay thế.

Trảm Mã Trà có hương vị độc đáo, độ chát vừa phải, vị ngọt, uống vào giúp tiêu hóa thức ăn. Theo các tài liệu đọc được, ta biết khi mùa xuân đến cũng là lúc hàng đàn ngựa bị bỏ đói nhiều ngày, được các toán mã phu xua từ kinh đô đi về hướng rặng núi cao vút hiểm trở trong tỉnh Tứ Xuyên, có tên là Vu Sơn. Đây là một vùng núi từ xa xưa đã mọc bạt ngàn những rừng trà hoang và mỗi độ xuân về là đâm chồi nẫy lộc, nhuộm xanh cả một vùng trời.

Tại đó, đàn ngựa đói lâu ngày được bọn mã phu xua đuổi lên rừng trà trên sườn núi, mặc sức ăn những đọt trà non vừa ướm lộc, cho đến lúc bụng no căng không thể ăn được nữa. Lúc đó bọn mã phu mới tập trung đàn ngựa và dẫn chúng xuống một con suối lượn quan triền núi Vu Sơn. Dòng suối này rất đặc biệt vì nước đặc sệt xác lá trà xuân nát rữa từ trên núi rụng xuống, trong giống như một con rồng đen đang lượn khúc, vì vậy mới có tên là suối Ô Long. Bầy ngựa sau khi được uống nước suối thỏa thích, lập tức các mã phu lên lưng ngựa và trở về nơi xuất phát.

Họ cho ngựa đi thật chậm, để cho búp trà non được ngựa nhai nát thấm với nước suối, đang ở trong bụng ngựa có đủ thời gian (chừng 1 ngày) lên men. Lúc đó đàn ngựa cũng về tới chuồng, lập tức bọn mã phu chém chết ngựa, mổ bụng rạch bao tử ra để lấy xác trà. Một toán thiếu nữ đã chờ sẳn đón nhận, đem xác trà sao, tẳm, chế biến thành món uống cực quý dành cho vua chúa và hoàng gia, được đánh đổi bằng cái chết của bầy ngựa vô tội.

                  -Lễ Hội Xe Ngựa Ở Pháp : Lê hội diễn ra hằng năm, được mỗi ngôi làng vùng Provence tổ chức kéo dài một tuần lễ. Đây là một bình nguyên phì nhiêu đầy những vườn nho và các loại cây ăn trái nổi tiếng của Pháp, trãi dài từ Rhône tới Durance. Cả trăm năm qua, 15 ngôi làng trong vùng vẫn tiếp tục truyền thống của ông cha để lại.

Khởi đầu, lễ hội xe ngựa dành cho vị Thánh Eloi người bảo hộ cho các thợ bịt móng ngựa và các gia súc lo việc đồng áng như trâu bò.Ngày nay các chiếc xe ngựa của Thánh Eloi vẫn còn được các vị linh mục sở tại ban phép lành. Các cuộc diễn hành rất vui nhộn vì được các ban nhạc hòa tấu theo nhịp quân hành qua các bản nhạc như Marseillais của Pháp và các nhạc phẩm nổi tiếng quốc tế.

Trong ngày Hội, các con tuấn mã và yên cương thường được các làng cho mượn lẫn nhau nhưng về phần trang điểm thì mỗi làng đều có những đặc dị riêng. Hội bắt đầu từ ngày Chủ Nhật với những nghi thức cổ truyền từ việc ăn uống (bánh mì, dồi, rượu vang) cho tới đốt lò than tỏa khói trắng, cho tới lúc tia nắng bắt đầu trong ngày cũng là lúc khai tiệc với những cốc rượu vang. Đây cũng là thời điểm những chiếc xe ngựa và người đánh xe sẳn sàng. Gần đây lễ hội còn tăng phần náo nhiệt với sự tham gia của các cô gái vùng Arles trong y phục cổ truyền. Thường có chừng 40-50 con ngựa tham dự lễ hội hằng năm.

Xin được mượn bài viết của Tiên Sinh Thu Giang Nguyễn Duy Cần, trong tác phẩm “ Cái cười của thánh nhân “ để kết thúc bài viết. Có một người đánh xe Lừa rất bực mình giống Lừa cứng cổ. Giống này hễ làm biếng không đi, thì đứng lỳ một chỗ, càng bị đánh, càng lùi thêm..Anh ta bèn nghĩ ra một kế, đem bó lúa tươi thơm ngát treo trước đầu lừa.

            Quã nhiên lừa thấy lúa thơm, bước tới ăn nhưng không bao giờ ăn được bó lúa. Nhờ vậy mà nó cứ bước mãi. Người đánh xe lừa không cần đánh đập, thúc giục hay tốn kém thứ gì..mà chiếc xe vẫn cứ đều đặn lăn bánh.

Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2013
HỒ ĐINH

Sự hài hước của toán học



Những con số luôn đem đến những bất ngờ thú vị đấy!

Tính theo cách này thì vẫn bằng nhau.
Logic của toán học.


Đồng hồ bá đạo.
Cách định nghĩa cuộc sống theo công thức toán học.
Em suýt phát điên vì không giải được!
Lẽ nào bố 16 tuổi, mẹ 12 tuổi!
Chứng minh Học = Rớt!!!
Bài toán hại não
Tâm thư gửi môn Toán.


(Sưu tầm)

Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama đi Vatican gặp ĐGH Phanxicô

Washington 21/1/2014, các hãng thông tấn quốc tế đều loan tin Tổng Thống Hoa Kỳ, Barack Obama sẽ gặp ĐGH Phanxicô tại Tòa Thánh Vatican vào ngày 27 tháng 3 năm 2014.


Phát ngôn viên Tòa Bạch Ốc, ông Jay Carney đã xác nhận tin trên và nói Tổng Thống Obama mong gặp ĐGH để cùng chia sẻ quyết tâm của hai vị trong cuộc chiến chống nghèo đói và tình trạng bất bình đẳng ngày càng gia tăng.

TT. Obama có chương trình viếng thăm Âu Châu vào hạ tuầng tháng 3 năm 2014. Theo lịch trình, ngày 24-25 tháng 03, Ông thăm Hòa Lan để tham dự cuộc họp thượng đỉnh An Ninh Nguyên Tử.

Ngày 26 Ông đến Bỉ tham dự phiên họp thượng đỉnh Mỹ - Âu Châu. Tại đây Tổng Thống cũng có phiên họp với vị Tổng Thư Ký khối Liên Minh Bắc Đại Tây Dương.

Tưởng cũng nên nhắc lại, kể từ thời Tổng Thống Eisenhower đến nay, qua hơn 60 năm, vị Tổng Thống nào của Hoa Kỳ cũng đến Vatican hội kiến với ĐGH. Tổng Thống Obama đã gặp ĐGH Bênêđictô XVI vào tháng 7 năm 2009 và vào ngày 27 tháng 3 tới đây, Ông sẽ gặp ĐGH Phanxicô lần đầu tiên. 

(baoconggiao.com)

22 tháng 1, 2014

Song of the Week: Third Sunday In Ordinary Time (January 26, 2014)

a) Entrance: Sing A New Song (EM#137)

b) Offertory: Where There is Love (EM#116)



c) Communion: O Beauty, Ever Ancient (EM#248)

d) Recessional: Prayer of St. Francis (EM#245)

20 tháng 1, 2014

Daily Readings – Audio (January 20-26, 2014)

Listen to Readings
By clicking on the date in the Audio Readings Files list below, an mp3 file will start playing:
(usccb.org)

Homily for the Second Sunday in Ordinary Time - Year A (January 19, 2014)

Behold, The Lamb of God, Who Takes Away The Sin of The World
(Jn 1:29)



Dear Sisters and Brothers in Christ,
In this Sunday’s Gospel reading, we hear Saint John the Baptist introduce Our Lord Jesus Christ to the crowd as “the Lamb of God, who takes away the sin of the world.”
Why is Christ called “lamb”?
A lamb, that mild and useful animal both in picture and in reality, remains a traditional and integral part of the Jewish religious life first, and then that of Christian faith.
Sacrifices offered to the Lord God in the Holy Temple of Jerusalem for blessing and forgiveness of sins are never lawfully made without lambs being slaughtered and burned.  The solemn celebration of the Passover reminds the eating of the lamb of which the blood marked the Jews who were spared in the night of terror in Egypt.  The Jews practice the ritual sending into the wilderness of the “scapegoat” on which the community throws all the wrongdoings which they have committed. 
Our Lord Jesus Christ was sent as both the Lamb of sacrifice and the scapegoat by God the Father to save us sinners.  Being the lamb of sacrifice Our Lord Jesus shed His Blood on the altar of the cross to wash the human race from sin.  In the role of the scapegoat Christ, innocent though, took all the evil consequences of sin on His shoulders.
Our Lord Jesus Christ accomplished His mission of saving humanity from sin and death because He is true God Who has the authority of forgiving sin, and because He is also true man Who can take all responsibility for our sins in our behalf.
Today Christ continues His sacrifice in the Holy Mass to obtain for us the divine mercy and forgiveness of our sins, and, at the same time, to grant us new life in the Holy Communion with His Body and Blood.
We are happy and grateful to take part in this celebration of the Supper of the Lord, being sure that we are children of the Heavenly Father Who so loved us that He gave us His Only Beloved Son to be the Lamb of sacrifice Who takes away all our sins and Who gives us the grace of life eternal.           

Fr. Francis Nguyen, O.P.  

Viện dưỡng lão - Đời là bể khổ

Đọc cho biết tuổi già ở xứ Mỹ. Khi già và bịnh đến độ không còn tự lo cho mình được nữa, tui sẽ ..."giữa đòan hùng binh có tui đi hàng đầu"... hiên ngang bước vào nursing home (viện dưỡng lão), khỏi làm phiền con cái.
Thật ra nên cám ơn sự hiện hữu của những nursing home ở xứ này đã giải quyết rất nhiều việc cho tuổi già , gỡ được cho người con thoát ra khỏi tình huống lúng túng .
Tui sẽ tuyệt đối thản nhiên chấp nhận chứ không cay đắng , trách móc hay hành hạ đứa con như bà già trong câu chuyện này . Tại sao lại đòi hỏi quá mức - ngoài khả năng -ở con cái rồi trách chúng bất hiếu ?
Vô nursing home ,Tui sẽ xúi con tui đi picnic , đi nhảy đầm xả láng ...khỏi vô thăm . Còn tui sẽ nghiền ngẫm " Cô gái Đồ-Long " cho quên đời già dzịch , nhất là "Lục mạch thần kiếm"  vì cả đời mê trai của tui , tui chỉ mê chàng Kiều-Phong . Cuối đời được kề cận chàng K.Phong , há chẳng phải là điều sướng khoái lắm ru ? (trích lời Kim Thánh Thán 3-Tầu). Khi lú lẫn không đọc sách nổi nữa , lại càng tốt : vô cảm , không suy nghĩ .
Nếu cảm thấy lý luận của tui là có lý thì ...allez ! còn chần chờ gì mà không đi mua ngay Kim-Dung tích trữ chờ ngày ngáp ngáp là vừa , hỡi các bạn hiền ?
(Bạn hiền của tui giá chót cũng đã 50 mùa Xuân đày đọa trên mái tóc , tức là  bánh xe lãng tử đã lăn được 2/3 " con đường tình ta đi " rồi)
 
ALam-Me-P1040056.jpg
Anh Lý Văn Lâm và mẹ trong viện dưỡng lão ở Garden Grove – ảnh: Hoàng Thanh/Viễn Đông
Có lẽ ai ai trong đời cũng đã có lần đi taxi. Dễ ợt có gì đâu, cứ tìm số điện thoại các hãng taxi rồi bấm số gọi, cho biết địa điểm, xong thì chờ xe tới đón. Nhưng ở quận Cam thì không biết từ bao giờ lại xuất hiện một nghề là lạ, đó là "taxi đưa đón phi trường". Cứ mở các nhật báo ở mục quảng cáo, rao vặt thì thấy ngay hằng hà sa số "Đưa đón - Đi khắp nơi - Dọn nhà - Phi trường - Tuyên thệ - Thi lấy bằng", vân vân và vân vân. Đa số những người làm nghề này là đàn ông (nhưng vẫn có phụ nữ), người Việt Nam. Có người làm thêm như một nghề tay trái, nhưng đa số thì xem đây là nghề chính để nuôi sống bản thân và gia đình. Con số các taxi Việt Nam ngày càng đông, và nghề này cũng khá thịnh hành vì dễ làm, thuận tiện về giờ giấc. Dường như người dân ở vùng này ít khi gọi taxi Mỹ vì giá cả mắc hơn, vả lại nói chuyện với taxi Việt Nam thì dễ dàng, khỏi cần suy nghĩ tìm từ ngữ chi cho mệt óc. Thông thường hễ cần thì mình gọi taxi, gặp người nào cũng được, và rất ít ai quan tâm đến việc chọn một người taxi riêng cho mình. Nhưng tôi thì khác...
Tôi quen anh Lâm taxi gần 3 năm nay. Mắt tôi hơi yếu, nên mỗi lần cần đi đâu xa, tôi không dám lái xe mà gọi taxi. Lần đầu tôi mở báo ra xem rồi gọi anh A, lần kế gọi anh B, rồi anh C, anh D... nhưng dần theo năm tháng, tôi quyết định chọn anh Lâm làm người  taxi "ruột" mà tôi ưng ý nhất. Bởi anh tính giá phải chăng, anh lại vui tính, lên xe anh hay nói chuyện này, chuyện nọ cho thời gian qua mau, hay có thể do anh và tôi hợp gu chăng? Nên thường khi cần đi đâu, bao giờ tôi cũng gọi anh trước, chỉ khi nào anh kẹt vào ngày giờ tôi cần, thì tôi mới gọi người khác. Nhưng có một điểm mà có lẽ một số hành khách có lẽ không hài lòng cho lắm, như có lần anh tâm sự với tôi, là anh luôn luôn đến đón họ sớm chút hay trễ chút. Tôi còn nhớ lần đó, tôi hẹn anh tới đón lúc 11 giờ rưỡi. Anh hỏi: “Đi sớm chút được không em? 11 giờ 10 anh lại, ráng giúp dùm anh chút đi”. Ngẫm nghĩ thấy cũng không có gì mà ầm ĩ, tôi đồng ý.
Khi lên xe, anh Lâm phân trần: “Em thông cảm dùm. Anh phải mua cháo mang vào cho Má anh. Hôm qua tự dưng bả nói thèm ăn cháo gà. Mà anh không mua là bả giận bỏ cơm cho coi”. Tôi ngạc nhiên lắm, vì có bà mẹ nào mà “nhõng nhẽo” dữ vậy ta. Hỏi ra thì mới biết mẹ anh Lâm đang ở trong viện dưỡng lão từ hơn 6 năm qua. Anh còn nói: “Cám ơn em nha. Nhiều khách khó chịu lắm, họ chỉ muốn đi thật đúng giờ. Sớm chút là họ bỏ, gọi taxi khác. Anh cũng đành chịu mất khách thôi”.
Anh Lâm lái xe vào khu dưỡng lão trên đường Haster. Anh bảo tôi ngồi trong xe đợi, 10 phút anh quay lại ngay. Tò mò, tôi hỏi: “Em vô được không?”. Anh Lâm gật đầu: “Được chứ, chỉ sợ làm phiền em thôi”. Thế là hai anh em bước vào Garden Park Care Center.
Lần đầu tiên vào khu nursing home, tôi ngơ ngác như con nai vàng, anh Lâm đi đâu tôi cứ theo đó. Sao mà quẹo trái, quẹo phải tùm lum, vậy mà ảnh thuộc lòng mới tài chứ. Bước vào phòng, không thấy ai, anh quay sang tôi nói: “Chắc họ đưa Má anh ra hội trường rồi”, xong anh tất tả quay ra. Hai chúng tôi đang đi trong dãy hành lang thì tôi nghe tiếng cười nói ồn ào vui nhộn văng vẳng ra từ một căn phòng. Lúc đó tôi nghĩ: “Ái chà, người già mà sao còn cười giỡn dữ vậy? Coi bộ cũng yêu đời quá chứ”.Nhưng hỡi ôi, khi bước vô hội trường thì mới biết thực hư. Thì ra tiếng cười giỡn nãy giờ tôi nghe là tiếng cô MC trên màn ảnh đang pha trò trong show ca nhạc. Trước mặt tôi chừng hơn ba chục ông bà lão, mà hơn hai phần ba là bà, chỉ chừng vài ông cụ mà thôi, và ai nấy đều ngồi trên xe lăn. Tôi quay sang anh Lâm: “Sao đàn bà không vậy anh?”. Anh trả lời ngay không suy nghĩ: “Thì đàn bà bao giờ cũng khổ hơn đàn ông, em không thấy vậy à? Sống thọ mà làm gì, con cái nó thảy mình vô đây chèo queo một mình, sống vậy thì anh thà chết còn sướng hơn”. Tôi thấy vui vui vì cái tính bộc trực, nghĩ gì nói đó của anh taxi này. Tôi chợt nhớ mình có đọc ở đâu đó người ta có nói là đàn bà sống thọ hơn đàn ông vì sức chịu đựng dẻo dai hơn, và đàn bà chịu... khóc hơn đàn ông, và đó cũng là một cách giúp xả stress.
Trước mặt tôi là những gương mặt vô hồn, dửng dưng, im lặng. Tôi lúng túng, và chỉ trong tíc tắc, tôi quyết định mĩm cười, cười với mọi người tôi gặp nơi đây, vì tôi nghĩ có lẽ đó là món quà duy nhất mà với họ, có thể là còn ý nghĩa và giá trị. Tôi quay sang cười: “Chào bác”, “Chào cô”. 
Những người đàn bà nhìn tôi, nhưng chẳng ai cười. Gương mặt ai cũng buồn, không chút xúc cảm. 
Một cụ già ngồi gục xuống mà nước miếng cứ chảy dài xuống áo. Cụ bên cạnh thì quẹo đầu sang một bên, mắt đờ đẫn, dường như cụ bị tật ở cổ thì phải. 
Bỗng dưng có bà cụ trông có vẻ già lắm, nét mặt rất phúc hậu, cụ chắp hai tay xá tôi lia lịa. Tôi sợ mang tội nên lật đật vịn hai tay bà lại và nói:“Cụ khỏe không cụ? Cụ đừng lạy con. Con vào thăm cụ đây”. Anh Lâm bảo: “Bà này sắp bị Alzheimer rồi em ơi. Từ mấy tháng nay ngày nào bả cũng mong chờ con trai và cháu nội vô thăm, mà tụi nó cứ biệt tăm. Bả đang lạy Phật cầu cho con cháu vô thăm đó, chứ không phải lạy em đâu”. Tôi nghe lòng mình thắt lại. Tôi liền giả bộ: “Má, con tới thăm Má nè. Má khỏe không?”. Bà cụ ngước lên nhìn tôi, nhíu nhíu cặp mắt tèm nhèm mà tôi thấy hai tròng đen đã mờ đục hẳn, bà nhìn một hồi, vẻ hoài nghi, và lát sau bà lắc đầu: “Không, con trai, con trai”, rồi bà lại xá tôi lia lịa. Anh Lâm kéo tay tôi: “Anh đã nói con bả là con trai kia mà, em giả bộ bả đâu có tin”. Tôi nói: “Vậy thì bà cụ còn tỉnh mà anh, còn trí nhớ mà”. Anh Lâm gật đầu: “Chỉ những gì dính líu tới con cháu thì bà nhớ. Còn những việc khác như làm vệ sinh, đi tiểu tiện, ăn uống thì bà quên hết. Có vào đây thì em mới thấm thía tình đời”.
Anh Lâm bước đến và đưa tay đẩy một chiếc xe lăn. Một bác gái chừng ngoài 70, mà tôi đoán là mẹ anh, ngồi ủ rũ trên xe như đang buồn ngủ. Tôi theo anh đưa bác về phòng. Đến nơi, anh đỡ bác lên giường, xong anh bày tô cháo ra trên bàn rồi bảo: “Cháo gà nóng con mới mua, mợ ăn đi kẻo nguội. Còn đây là nước mía, ăn xong mợ nhớ uống. Giờ con phải đưa khách đi, trễ giờ rồi”. Tôi chào bác gái ra về. Bà chỉ gật nhẹ đầu đáp lại.
Lên xe, tôi tò mò hỏi thêm về bác. Anh Lâm kể: “Ba má anh có 5 người con. Xưa kia ba anh là đại úy của 3 đời tổng thống (Vua Bảo Đại, TT Diệm và TT Thiệu). Má anh ở nhà nội trợ lo cho 5 đứa con. Ba anh mang tiếng là đại úy chứ nhà anh nghèo lắm, má anh giỏi xoay xở vô cùng mới đủ sống đó chứ. Sau 75, ba anh ở tù 5 năm rồi sau đó cả nhà được sang Mỹ năm 1989 theo diện HO. Khi mới qua với hai bàn tay trắng, cả ba và má anh đều phải đi làm đủ nghề để sống và nuôi các con. Khi đó mấy anh em cũng lớn rồi, mạnh đứa nào đứa nấy bung ra đi làm. Tụi anh đứa nào cũng sức trai tráng, ăn mạnh như voi, nên má anh cứ dành hết món ăn nào bổ là nhường cho chồng và các con. Ba anh thì sức khoẻ rất kém sau những năm tù đày, nên ổng cứ bệnh rề rề và qua đời năm 1997 vì bị xuất huyết bao tử. Sau cái chết của ba, má anh càng xuống tinh thần thấy rõ. Lúc này anh và mấy đứa em đã có gia đình riêng. Anh là anh cả, thằng S. có vợ , mua nhà nhưng không dám mang má về ở chung, mặc dù nó là đứa khá giả nhất trong gia đình. Con C. lấy chồng dọn đi Nevada. Thằng A. thì qua ở với vợ bên Thụy Sĩ. Chỉ còn anh và N., cô em gái bệnh tâm thần từ hồi còn ở Việt Nam, nên má ở với anh và nó. Ông bà mình có câu ‘Cha mẹ nuôi con biển trời lai láng, Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày’. Anh thấy câu này không đúng chút nào. Bởi như gia đình anh nè, tụi em anh có đứa nào nuôi ba má được một ngày nào đâu mà kể.  Tội nghiệp ổng bả, cả đời còng lưng nuôi con khôn lớn. Để khi thành danh thì đứa nào cũng sợ chồng, sợ vợ không dám cho ba má ở chung. Ai cũng ca hoài cái điệp khúc ‘Con có gia đình riêng, còn nhiều thứ lo lắm. Thầy mợ ráng tự lo đi’. Đúng là bạc bẽo tình đời”.
Sau khi xổ một tràng cho hả giận, anh Lâm ngừng chút lấy hơi rồi tiếp tục kể: “Xưa kia khi ở Việt Nam má anh đã ít vận động, suốt ngày chỉ ở trong nhà lo việc bếp núc và chăm sóc các con, và có lẽ vậy mà xương má đã yếu. Sang đây thì bác sĩ cho biết là má anh bị thoái hóa cột sống, và các khớp xương ở đầu gối, cổ tay, đều thiếu chất dịch trơn nên cử động đều gây đau đớn lắm. Má không còn đi làm được nữa, và phải đi gặp bác sĩ thường xuyên để chữa trị. Sau 5 năm thì bác sĩ đề nghị với gia đình là cho má anh vô nursing home thì sẽ dễ dàng hơn, vì mấy anh chị em không ai rảnh mà chăm sóc cho má hết”.
Giọng anh Lâm đều đều: “Có ở xứ này mới nhận ra là đa số con cái đều bất hiếu lắm em ơi. Nước Việt Nam mình nghèo, con đi làm không đủ nuôi thân, nên không sao lo cho cha mẹ, mình còn chấp nhận được. Còn ở Mỹ, đứa nào cũng có xe, có nhà, chỉ có mỗi thời gian và lòng hiếu thảo là không có. Mà thời gian có đào ra được, cũng chỉ để dẫn vợ, chồng, con cái đi nghỉ hè, còn ông bà già thì mặc xác họ. Ngày nào vô đây 3 bận là anh tức, anh hận cái bạc bẽo của tình đời. Thằng con mà má anh thương nhất, cũng lại là đứa ham tiền, sợ vợ mà chưa hề đến gặp má, dù chỉ một lần, từ hơn 6 năm má anh vào đây. Anh là thằng má la rầy nhiều nhất, giờ thì chỉ mình anh mỗi ngày 3 cử vào ra, đem cơm nước và săn sóc cho bả”.
- Bộ trong đó họ không lo cho bác ăn uống sao anh?
- Có chứ. Nhưng người già trở tính lắm em ơi. 6 giờ sáng anh phải đích thân pha cà phê mang vô cho má, bởi chỉ có anh là biết cách pha đậm lạt như thế nào thôi, chứ mua ngoài tiệm má anh không chịu uống. Trưa phải mua món canh nào bả thích, còn chiều thì có lúc mua đồ tráng miệng, chè hay món gì nhẹ nhẹ mang vô. Anh thuộc lòng món nào má anh thích, món nào bả không ưa. Mà hễ anh không vô một cữ là bả nhịn không ăn cơm, thành thử khách mà gọi gần đến giờ vô nursing home là anh đành phải từ chối, không nhận khách, bởi vậy mà đời anh nghèo cứ mãi nghèo. Anh thì quê mùa có biết gì về tâm lý đâu, nhưng anh nghe người ta nói rằng người già rất sợ cô đơn, họ sợ bị bỏ rơi. Chính vì vậy mà họ tìm mọi cách để con cháu chú ý và quan tâm đến họ. Nói theo cách bình dân của mình, thì người già hay“trở chứng” lắm. Anh thì cứ nghĩ đơn giản là ngày xưa lúc còn nhỏ mình cũng quậy ba má làm ổng bả cực khổ, thì giờ nếu má có làm eo làm sách chút cũng không sao. Là con mình phải biết chiều ba má, lỡ mai này má có chết anh sẽ không hối hận chút gì hết cả.
Lần thứ hai đi taxi thì anh Lâm chở tôi ghé vào mang cơm cho bác gái. Hôm ấy bác mới vừa hết chứng nhiễm trùng phổi và được đưa từ nhà thương về. Khi tôi chào, bác chỉ gật nhẹ đầu như mọi lần. Tôi đưa mắt nhìn quanh phòng. Trên đầu giường bác có treo đầy các ảnh Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria cùng cây thánh giá. Tôi muốn bắt chuyện với bác nhưng không biết nói gì, cuối cùng tôi bảo: “Bác nhớ cầu nguyện mỗi ngày nhe bác. Chúa sẽ che chở cho bác”. Bà không nói gì cả mà chỉ gật đầu.
Chiếc giường bên cạnh có một cô trẻ hơn đang nằm dán mắt nhìn trên trần nhà. Tôi ngạc nhiên vì thấy cái tivi đang mở, chiếu bộ phim Đại Hàn thì phải, coi bộ hay và gay cấn lắm, mà sao hai người không ai thèm xem. Tôi bắt chuyện: “Ở đây cũng được quá cô hả? Có tivi để xem phim đỡ buồn”. Cô này nói ngay: “Chán lắm. Phim lúc nào cũng mơ với mộng. Đời ở ngoài mới cay đắng hơn nhiều. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại , nằm đây 3 năm rồi có khác gì nhà tù đâu”. Hỏi thăm tôi được biết là cô bị hư thận, phải lọc thận 4 lần mỗi tuần từ vài năm nay, nhưng chồng cô không rảnh chở cô đi, nên cuối cùng gia đình quyết định cho cô vào đây luôn để... rảnh nợ (theo lời cô nói ). Cô chua chát: “Lúc mới đầu, để thuyết phục tôi chịu vô đây, ổng (chồng cô) hứa là sẽ vào thăm tui dịp cuối tuần, nhưng được đâu vài tháng thì riết rồi cũng bặt tăm luôn. Nghe đồn ổng có bà khác rồi. Cuộc đời khốn nạn lắm”. Cô cay đắng lên tiếng.
Anh Lâm bước vô, đỡ bác gái đi làm vệ sinh. Lúc trở ra, trông bác có vẻ mệt, nên anh dìu đặt mẹ lên giường rồi rủ tôi đi đến bàn trực hỏi thăm về thuốc men của bác. Trên đường đi tôi hỏi nhỏ: “Sao má anh ít nói quá vậy?”. “Còn gì mà nói em”. Giọng anh Lâm bực bội. “Em thử nghĩ 5 đứa con mình nuôi từ nhỏ, cả đời cơ cực vì tụi nó, giờ mình già yếu thì không thấy mặt mũi đứa nào. Nằm ở đây 24 tiếng mỗi ngày, dài lắm em biết hôn. Hơn 6 năm trời, tha hồ mà nuốt nước mắt ngược vào trong. Má anh không nói, nhưng anh biết trong đầu bả nói nhiều lắm, và vì vậy mà đau khổ vô cùng. Những ai độc thân hay không con cái vậy mà sướng. Anh bảo bả nhiều lần rồi, ‘Mợ đừng suy nghĩ nữa. Người khổ là con đây nè. Lo cho mợ, cho vợ, cho con cái, cho đứa em bệnh tâm thần, riết rồi con muốn điên cả đầu và chỉ mong được chết sớm mà thôi’”.
Khi ngồi trên xe, chúng tôi nói chuyện nhiều lắm. Tôi thông cảm cho hoàn cảnh của anh, ngày nào anh cũng vào thăm má 3 cữ, đem cơm, đồ tráng miệng, và nhất là mỗi lần bác sĩ cho thứ thuốc mới là má anh đều làm nư không chịu uống. Anh kể:“Bả nhất định không uống thuốc. Bả cứ nói uống nhiều thuốc quá rồi cũng chết, vậy uống mà làm gì? Anh năn nỉ quá thì cuối cùng bả ra điều kiện là anh phải ngủ lại qua đêm, để lỡ nếu uống thuốc vô mà có bị gì thì anh chở bả đi bệnh viện gấp”. 
- Vậy anh có ngủ lại không? Tôi hỏi. 
Dĩ nhiên rồi, đã dụ bả thì phải dụ tới nơi tới chốn chứ. Anh giả bộ trải tấm khăn nằm đại dưới đất, mà phải làm lén nữa chứ. Nhìn trước nhìn sau không thấy bóng nhân viên thì anh mới dám nằm. Hễ nghe tiếng chân ai bước tới là anh bật dậy, nói dối má là anh đi vệ sinh, vậy mà bả tin. Uống thuốc xong một hồi là bả ngủ. Thế là anh chuồn về nhà.
Tôi buồn cười vì óc “sáng tạo” của anh Lâm. Nhưng vẫn còn tò mò, tôi hỏi: 
- Sáng mai thức dậy không thấy anh thì bể mánh làm sao?
- Vậy là em chưa biết gì về người già rồi. Ngủ một đêm là họ quên sạch, vô đây là ai cũng gần lú lẫn hết rồi em ơi.
Cách đây hơn một tháng, hai anh em có dịp đi xe chung, và bàn tán về đủ thứ chuyện trên đời, kinh tế xuống dốc, thất nghiệp, rồi về cơn thiên tai tại Nhật. Anh Lâm bảo tôi“Nói thiệt, thiên tai, chiến tranh, thảm họa hạt nhân gì anh cũng không sợ. Điều duy nhất mà anh sợ là anh chết trước má anh. Bởi anh biết anh mà có bề gì là má anh sẽ không còn sống nổi nữa. 6 năm qua, anh đã trở thành niềm vui và hy vọng của bả mỗi ngày. Có một lần anh bệnh nên nhức đầu quá không dậy nổi, nên sáng và trưa anh không vô. Đến chiều thì cô nhân viên gọi, cô ta nói là má anh không chịu ăn uống gì hết. Bả cáu gắt với mọi người và cứ ngồi ngóng về hướng cửa. Bởi vậy mà như em biết đó, kinh tế khó khăn, nghề taxi nghèo lắm, nhưng hễ khách có gọi trùng vào giờ anh phải vô thăm má, thì anh luôn luôn chọn má, mà bỏ khách.Không có người khách này, anh hy vọng sẽ còn người khách khác, nhưng má thì anh chỉ có một. Từ bao năm nay chưa bao giờ anh có thể đi chơi đâu với vợ con, cũng may trời thương nên bà xã anh rất thông cảm. Nhiều lúc mệt mỏi quá anh hay to tiếng với má, lúc về nhà thì lại hối hận. Chắc tại anh là đàn ông nên không biết nói dịu dàng em ơi”. Tôi im lặng. Thấy thương người lái taxi ở vào tuổi trung niên nhưng chưa có được một ngày no đủ. Thương dáng anh lúc nào cũng tất tả. Thương tướng đi của anh bao giờ cũng hối hả. Thương cái lưng anh khòm khòm cứ chúi về phía trước. Có đôi lần anh hơi to tiếng với mẹ anh, và tôi hiểu là vì anh sợ trễ giờ của khách, lo khách sẽ phiền hà, nhưng tấm lòng hiếu thảo của anh thì chưa chắc người con nào khác đã có được.
Tuần rồi có việc cần đi taxi, tôi lại gọi anh Lâm. Giọng anh lo lắng: “Má anh bị gãy xương chân rồi. Em có thể đi sớm nửa tiếng dùm anh được không? Anh vào đó lo cho bả chút rồi mình đi”. Tôi đồng ý.
Trên xe anh kể tôi nghe: “Nửa tháng trước khi đỡ bác lên giường, cô nhân viên vô tình không để ý nên một ống chân của má đập vào thanh giường và gãy. Từ đó má anh phải bó bột và không di chuyển được. Đau đớn mà bả không chịu uống thuốc, hễ anh vào là má cứ cằn nhằn khiến anh nhức cả óc”. 
Anh Lâm thở dài chán nản: “Nhiều lúc anh mỏi mệt quá, chỉ muốn được chết cho xong. Nhưng lại nghĩ đến má, anh chết thì ai lo cho bả? Mai này anh già, anh không mong đứa con nào lo cho mình hết. Anh chỉ mong khi nào má mất, anh lo mai táng cho bả đàng hoàng tươm tất, rồi thì  anh ước mình sẽ ra đi theo bả cho xong, sống thọ chưa chắc là phúc đức đâu em”.
Chiếc taxi cứ bon bon trên đường. Thấy tôi im lặng, anh Lâm lại bắt chuyện: “Em thấy khổ vậy đó, nhưng chưa phải tận cùng đâu em. Hôm nào tiện anh dẫn em qua khu bên kia, nơi đó chỉ toàn những người bệnh hấp hối, nằm liệt trên giường với đời sống thực vật. Họ không còn biết gì nữa hết, cũng không còn cả cảm xúc. Anh luôn tự an ủi mình là mỗi ngày ra vào những chốn này, mới nhắc nhở cho anh rằng đời là bể khổ, và mình còn sống được ngày nào khỏe mạnh thì đã là hạnh phúc”.
Tự dưng tôi chợt nhớ ra một điều, nên bảo anh: 
Sắp đến ngày lễ Mẹ rồi đó, anh có định mua gì hay làm gì cho bác vui không? 
Anh làm hoài đó chứ, sinh nhật, Tết, Giáng Sinh, anh đều có quà cho bả vui. Nhưng riết rồi cũng chẳng còn ai vui, kể cả má hay anh. Người già vào đây từ từ rồi tim ai cũng chai, mà anh là người nuôi bệnh, tim anh cũng chai từ hồi nào anh không biết nữa. 
Tôi góp ý: 
Có lẽ anh bị stress nhiều quá không? Công ăn việc làm, các em bỏ rơi mẹ, áp lực từ nhiều thứ quá nên anh buồn và bất mãn. Nhưng anh cố gắng đi, khi nào mẹ mất  thì anh sẽ không hề hối tiếc điều gì cả. 
Anh Lâm lặng thinh.
Khi vào trong, như mọi lần, anh Lâm cứ hối mẹ: “Mợ mau lên, kẻo khách đợi”. Tôi bảo: “Từ từ, không sao đâu anh, hôm nay em không gấp”. Trong khi anh Lâm đi tìm người nhân viên để dặn dò điều gì đó, tôi bước lại hỏi thăm bác gái về cái chân đang bó bột. Bác cứ gật gật đầu, có vẻ mỏi mệt. Tôi hỏi: “Sắp đến lễ Mẹ rồi, bác thích hoa gì, anh Lâm sẽ mang vào tặng bác”. Bà lắc đầu: “Không cần”.Tôi không biết nói gì nữa. Nghe có tiếng chân ai bước tới gần, tôi đoán là anh Lâm nên tôi chào bác ra về. Tôi nói: “Bác đừng buồn. Bác hạnh phúc hơn nhiều người khác lắm, bởi vì ít ra bác cũng còn có được một đứa con hiếu thảo”. Bác gái gật đầu và quay mặt đi. Tôi thoáng thấy giọt nước mắt ứa ra từ khóe mắt bà. Chắc có lẽ ngượng với tôi nên bác quay nhìn nơi khác. Tôi bước đi về hướng cửa phòng, lòng cảm thấy vui, vì tôi hiểu đó là giọt nước mắt hạnh phúc của một người Mẹ.
Rời khu nursing home, tôi tự hỏi biết bao người mẹ, người cha cả cuộc đời  hy sinh vì con cháu, để rồi khi bóng xế chiều tàn họ một mình vò võ nơi đây. Vào các viện dưỡng lão như thế này tôi mới càng thấm thía câu nói của ông bà xưa: “Nước mắt chảy xuôi, có bao giờ chảy ngược?”. Ngày lễ Mẹ sắp đến rồi, hằng trăm ngàn đứa con, thử hỏi có được bao nhiêu người còn nhớ ra là họ vẫn còn có một bà Mẹ tại nơi này? 
Đột nhiên tôi nhớ đến Má. Má tôi đang ở xa, và chưa năm nào tôi có dịp mừng lễ Mother's Day cùng Mẹ. 
Nhìn đồng hồ. 12 giờ trưa. Mặt trời đứng bóng. Tôi thấy mắt mình cay cay, có lẽ do chói nắng? Và sao tự dưng mũi bắt đầu sụt sịt. 
Anh Lâm chợt quay sang hỏi:
Em sao vậy? Sao mắt đỏ rồi? Nhớ Má hả?
Tôi gật đầu.
Nhớ thì về thăm Má.