Lãnh thổ Kuwait là sa mạc. Không có sông và cũng chẳng có hồ, nên 1,6 triệu dân quốc gia này luôn phải sống trong cảnh thiếu nước trầm trọng, đến rau cũng phải nhập cảng từ nước ngoài.
2 - Monaco - quốc gia không có đất canh tác
Monaco là một trong những quốc gia nhỏ nhất thế giới với diện tích chưa đến 2km2. Nước này hoàn toàn không có đất dành cho nông nghiệp, nên 100 % lương thực phải nhập cảng. Thu nhập chính của quốc gia này dựa vào du lịch.
3 - St Marino - quốc gia không có quân đội.
St Marino là một quốc gia trong lòng quốc gia, bốn phía bị bao bọc bởi nước Ý, có diện tích khoảng 1,2 km2 với 2 ngàn dân. Quốc gia này từ trước tới nay chưa từng xây dựng quân đội, trật tự an ninh cả nước đều do lực lượng cảnh sát mong manh (hơn 40 người) đảm nhiệm. Đặc biệt hơn là St. Marino không có chữa lữa cho nên mỗi khi gặp hỏa hoạn họ đều phải nhờ cảnh sát Ý, anh bạn láng giềng độc nhất trợ giúp.
4 - Thuỵ Điển - quốc gia không có quán rượu
Thuỵ Điển là nước cấm rượu. Đến Thuỵ Điển người ta không thể tìm thấy bất cứ một quán rượu nào. Muốn uống rượu ở nhà hay mua rượu về uống, người dân phải xin được một loại giấy phép đặc biệt với vô vàn các chứng nhận của địa phương, và của bác sĩ. Không những vậy khi uống rượu nếu để say (lượng cồn trong máu hơn 1 %) lập tức họ sẽ bị tống vào trại cai nghiện trong vòng 3 tháng.
5 - Fiji - quốc gia không có ai mắc bệnh ung thư.
Fiji là một quốc gia gồm 800 đảo nhỏ có dân số hơn 60 ngàn người. Ở quốc gia này chưa từng có ai mắc bệnh ung thư. Sau khi nghiên cứu các nhà khoa học phát hiện ra rằng người dân Fiji không bị mắc bệnh ung thư là do họ ăn nhiều quả hạnh nhân khô - một loại quả có lượng vitamin phong phú, tác dụng chống ung thư.
6 - Nauru - quốc gia không có đất.
Cũng như Fiji, Nauru là một đảo thuộc Úc châu.. Tuy nhiên các đảo của nước này lại hình thành trên nền nham thạch san hô. Sau một quá trình biến đổi hoá học lâu dài, nham thạch san hô tạo nên một lớp phân gốc muối Acíd Phosphoric dày tới 10 mét. Do đó muốn trồng trọt, Nauru phải nhập cảng đất từ các quốc gia khác.
b) Responsorial Psalm: (Ps 30:2, 4, 5-6, 11-12, 13) - EM page 165
R. I will praise you, Lord, for you have rescued me.
R. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.
I will extol you, O LORD, for you drew me clear and did not let my enemies rejoice over me. O LORD, you brought me up from the netherworld; you preserved me from among those going down into the pit. R. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. R.
Sing praise to the LORD, you his faithful ones, and give thanks to his holy name. For his anger lasts but a moment; a lifetime, his good will. At nightfall, weeping enters in, but with the dawn, rejoicing. R. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo. R.
Hear, O LORD, and have pity on me; O LORD, be my helper. You changed my mourning into dancing; O LORD, my God, forever will I give you thanks. R. Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu. R.
c) Prayer Of The Faithful Response:
Alleluia! Alleluia! Alleluia! (ES #128)
d) Offertory: ES #326 : “All Goods Gifts”
e) Communion: ES #136 “This Day Was Made By The Lord”
When the captain and the court officers had brought the apostles in
and made them stand before the Sanhedrin,
the high priest questioned them,
"We gave you strict orders, did we not,
to stop teaching in that name?
Yet you have filled Jerusalem with your teaching
and want to bring this man's blood upon us."
But Peter and the apostles said in reply,
"We must obey God rather than men.
The God of our ancestors raised Jesus,
though you had him killed by hanging him on a tree.
God exalted him at his right hand as leader and savior
to grant Israel repentance and forgiveness of sins.
We are witnesses of these things,
as is the Holy Spirit whom God has given to those who obey him."
The Sanhedrin ordered the apostles
to stop speaking in the name of Jesus, and dismissed them.
So they left the presence of the Sanhedrin,
rejoicing that they had been found worthy
to suffer dishonor for the sake of the name.
The word of the Lord.
BÀI ĐỌC I: (Cv 5,27b-32.40b-41)
“Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?” Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!” Họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
RESPONSORIAL PSALM: (Ps 30:2, 4, 5-6, 11-12, 13)
R. I will praise you, Lord, for you have rescued me. R. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt.
I will extol you, O LORD, for you drew me clear
and did not let my enemies rejoice over me.
O LORD, you brought me up from the netherworld;
you preserved me from among those going down into the pit. R. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo cười con. Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài
đã kéo con lên,
tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống. R.
Sing praise to the LORD, you his faithful ones,
and give thanks to his holy name.
For his anger lasts but a moment;
a lifetime, his good will.
At nightfall, weeping enters in,
but with the dawn, rejoicing. R. Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa,
cảm tạ thánh danh Người. Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo. R.
Hear, O LORD, and have pity on me;
O LORD, be my helper.
You changed my mourning into dancing;
O LORD, my God, forever will I give you thanks. R. Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con,
lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ. Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ
điệu. Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu. R.
SECOND READING: (Rev 5:11-14)
A reading from the Book of Revelation
I, John, looked and heard the voices of many angels
who surrounded the throne
and the living creatures and the elders.
They were countless in number, and they cried out in a loud voice:
"Worthy is the Lamb that was slain
to receive power and riches, wisdom and strength,
honor and glory and blessing."
Then I heard every creature in heaven and on earth
and under the earth and in the sea,
everything in the universe, cry out:
"To the one who sits on the throne and to the Lamb
be blessing and honor, glory and might,
forever and ever."
The four living creatures answered, "Amen, "
and the elders fell down and worshiped.
The word of the Lord.
BÀI ĐỌC II: (Kh 5,11-14)
“Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, …vinh quang và lời chúc tụng”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”. Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển, tung hô rằng: “Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự, vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Bốn sinh vật thưa: “Amen”, và hai mươi bốn vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia
R. Alleluia, alleluia.
Christ is risen, creator of all;
he has shown pity on all people.
R. Alleluia, alleluia
GOSPEL: (Jn 21:1-19)
A reading from the holy Gospel according to Saint John
At that time, Jesus revealed himself again to his disciples at the Sea of Tiberias.
He revealed himself in this way.
Together were Simon Peter, Thomas called Didymus,
Nathanael from Cana in Galilee,
Zebedee's sons, and two others of his disciples.
Simon Peter said to them, "I am going fishing."
They said to him, "We also will come with you."
So they went out and got into the boat,
but that night they caught nothing.
When it was already dawn, Jesus was standing on the shore;
but the disciples did not realize that it was Jesus.
Jesus said to them, "Children, have you caught anything to eat?"
They answered him, "No."
So he said to them, "Cast the net over the right side of the boat
and you will find something."
So they cast it, and were not able to pull it in
because of the number of fish.
So the disciple whom Jesus loved said to Peter, "It is the Lord."
When Simon Peter heard that it was the Lord,
he tucked in his garment, for he was lightly clad,
and jumped into the sea.
The other disciples came in the boat,
for they were not far from shore, only about a hundred yards,
dragging the net with the fish.
When they climbed out on shore,
they saw a charcoal fire with fish on it and bread.
Jesus said to them, "Bring some of the fish you just caught."
So Simon Peter went over and dragged the net ashore
full of one hundred fifty-three large fish.
Even though there were so many, the net was not torn.
Jesus said to them, "Come, have breakfast."
And none of the disciples dared to ask him, "Who are you?"
because they realized it was the Lord.
Jesus came over and took the bread and gave it to them,
and in like manner the fish.
This was now the third time Jesus was revealed to his disciples
after being raised from the dead.
When they had finished breakfast, Jesus said to Simon Peter,
"Simon, son of John, do you love me more than these?"
Simon Peter answered him, "Yes, Lord, you know that I love you."
Jesus said to him, "Feed my lambs."
He then said to Simon Peter a second time,
"Simon, son of John, do you love me?"
Simon Peter answered him, "Yes, Lord, you know that I love you."
Jesus said to him, "Tend my sheep."
Jesus said to him the third time,
"Simon, son of John, do you love me?"
Peter was distressed that Jesus had said to him a third time,
"Do you love me?" and he said to him,
"Lord, you know everything; you know that I love you."
Jesus said to him, "Feed my sheep.
Amen, amen, I say to you, when you were younger,
you used to dress yourself and go where you wanted;
but when you grow old, you will stretch out your hands,
and someone else will dress you
and lead you where you do not want to go."
He said this signifying by what kind of death he would glorify God.
And when he had said this, he said to him, "Follow me."
The Gospel of the Lord.
PHÚC ÂM: (Ga 21,1-19)
“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: “Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô), Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng: “Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng: “Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ông là ai?”, vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.]
a) Entrance: ES #126: “christ, the lord, is risen today”
B) RESPONSORIAL PSALM: (Ps 118:2-4, 13-15, 22-24) - Page 163
R. Give thanks to the Lord for he is good, his love is everlasting. R. Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Let the house of Israel say, "His mercy endures forever." Let the house of Aaron say, "His mercy endures forever." Let those who fear the LORD say, "His mercy endures forever." R. Ít-ra-en hãy nói lên rằng : muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nhà A-ha-ron hãy nói lên rằng : muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ai kính sợ Chúa hãy nói lên rằng : muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. R.
I was hard pressed and was falling, but the LORD helped me. My strength and my courage is the LORD, and he has been my savior. The joyful shout of victory in the tents of the just: R. Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này.Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân. R.
The stone which the builders rejected has become the cornerstone. By the LORD has this been done; it is wonderful in our eyes. This is the day the LORD has made; let us be glad and rejoice in it. R. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.R.
C) PRAYER OF THE FAITHFUL RESPONSE:
"This day was made by the Lord/Let us rejoice/let us be glad/
This day was made by the Lord/ Let us rejoice in salvation."
Many signs and wonders were done among the people
at the hands of the apostles.
They were all together in Solomon's portico.
None of the others dared to join them, but the people esteemed them.
Yet more than ever, believers in the Lord,
great numbers of men and women, were added to them.
Thus they even carried the sick out into the streets
and laid them on cots and mats
so that when Peter came by,
at least his shadow might fall on one or another of them.
A large number of people from the towns
in the vicinity of Jerusalem also gathered,
bringing the sick and those disturbed by unclean spirits,
and they were all cured.
The word of the Lord.
BÀI ĐỌC I: (Cv 5,12-16)
“Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.
Ðó là lời Chúa.
RESPONSORIAL PSALM: (Ps 118:2-4, 13-15, 22-24)
R. Give thanks to the Lord for he is good, his love is everlasting. R. Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Let the house of Israel say,
"His mercy endures forever."
Let the house of Aaron say,
"His mercy endures forever."
Let those who fear the LORD say,
"His mercy endures forever." R. Ít-ra-en hãy nói lên rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nhà A-ha-ron hãy nói lên
rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ai kính sợ Chúa hãy nói lên
rằng :
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. R.
I was hard pressed and was falling,
but the LORD helped me.
My strength and my courage is the LORD,
and he has been my savior.
The joyful shout of victory
in the tents of the just: R. Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này.Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân. R.
The stone which the builders rejected
has become the cornerstone.
By the LORD has this been done;
it is wonderful in our eyes.
This is the day the LORD has made;
let us be glad and rejoice in it. R. Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.R.
SECOND READING: (Rev 1:9-11A, 12-13, 17-19)
A reading from the Book of Revelation
I, John, your brother, who share with you
the distress, the kingdom, and the endurance we have in Jesus,
found myself on the island called Patmos
because I proclaimed God's word and gave testimony to Jesus.
I was caught up in spirit on the Lord's day
and heard behind me a voice as loud as a trumpet, which said,
"Write on a scroll what you see."
Then I turned to see whose voice it was that spoke to me,
and when I turned, I saw seven gold lampstands
and in the midst of the lampstands one like a son of man,
wearing an ankle-length robe, with a gold sash around his chest.
When I caught sight of him, I fell down at his feet as though dead.
He touched me with his right hand and said, "Do not be afraid.
I am the first and the last, the one who lives.
Once I was dead, but now I am alive forever and ever.
I hold the keys to death and the netherworld.
Write down, therefore, what you have seen,
and what is happening, and what will happen afterwards."
The word of the Lord.
BÀI ĐỌC II: (Kh 1,9-11a.12-13.17-19)
“Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: “Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á”. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: “Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia (Jn 20:29)
R. Alleluia, alleluia.
You believe in me, Thomas, because you have seen me, says the Lord;
blessed are those who have not seen me, but still believe!
R. Alleluia, alleluia.
Alleluia: (Ga 20, 29)
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.
GOSPEL: (Jn 20:19-31)
A reading from the holy Gospel according to Saint John
On the evening of that first day of the week,
when the doors were locked, where the disciples were,
for fear of the Jews,
Jesus came and stood in their midst
and said to them, "Peace be with you."
When he had said this, he showed them his hands and his side.
The disciples rejoiced when they saw the Lord.
Jesus said to them again, "Peace be with you.
As the Father has sent me, so I send you."
And when he had said this, he breathed on them and said to them,
"Receive the Holy Spirit.
Whose sins you forgive are forgiven them,
and whose sins you retain are retained."
Thomas, called Didymus, one of the Twelve,
was not with them when Jesus came.
So the other disciples said to him, "We have seen the Lord."
But he said to them,
"Unless I see the mark of the nails in his hands
and put my finger into the nailmarks
and put my hand into his side, I will not believe."
Now a week later his disciples were again inside
and Thomas was with them.
Jesus came, although the doors were locked,
and stood in their midst and said, "Peace be with you."
Then he said to Thomas, "Put your finger here and see my hands,
and bring your hand and put it into my side,
and do not be unbelieving, but believe."
Thomas answered and said to him, "My Lord and my God!"
Jesus said to him, "Have you come to believe because you have seen me?
Blessed are those who have not seen and have believed."
Now Jesus did many other signs in the presence of his disciples
that are not written in this book.
But these are written that you may come to believe
that Jesus is the Christ, the Son of God,
and that through this belief you may have life in his name.
The word of the Lord.
PHÚC ÂM: (Ga 20,19-31)
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
a) Entrance: ES #136: “THIS DAY WAS MADE BY THE LORD”
b) Responsorial Psalm (Psalm 118:1-2, 16-17, 22-23) - EM page 159
R. (24) This is the day the Lord has made; let us rejoice and be glad.
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó
Give thanks to the LORD, for he is good,
for his mercy endures forever.
Let the house of Israel say,
“His mercy endures forever.”
Xướng: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
R. This is the day the Lord has made; let us rejoice and be glad.
“The right hand of the LORD has struck with power;
the right hand of the LORD is exalted.
I shall not die, but live,
and declare the works of the LORD.”
Xướng: Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
R. This is the day the Lord has made; let us rejoice and be glad.
The stone which the builders rejected
has become the cornerstone.
By the LORD has this been done;
it is wonderful in our eyes.
Xướng: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta.
R. This is the day the Lord has made; let us rejoice and be glad.
c) Sequence - ES # 118/EM p.160
Christians, To The Paschal Victim
(Victimae paschali laudes)
Christians, to the Paschal Victim
Offer your thankful praises!
A Lamb the sheep redeems;
Christ, who only is sinless,
Reconciles sinners to the Father.
Death and life have contended in that combat stupendous:
The Prince of life, who died, reigns immortal.
Speak, Mary, declaring
What you saw, wayfaring.
“The tomb of Christ, who is living,
The glory of Jesus’ resurrection;
bright angels attesting,
The shroud and napkin resting.
Yes, Christ my hope is arisen;
to Galilee he goes before you.”
Christ indeed from death is risen, our new life obtaining.
Have mercy, victor King, ever reigning!
Amen. Alleluia.
Ca Tiếp Liên
Các Kitô hữu hãy tiến dâng
lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:
Ðức Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,
tướng lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.
Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe
bà đã thấy gì trên quãng đường đi?
Tôi đã thấy mồ Ðức Kitô đang sống
và vinh quang của Ðấng Phục Sinh,
thấy các thiên thần làm chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Ðức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,
Người đi trước chư vị tới xứ Galilêa.
Chúng tôi biết Ðức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!
Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.
Amen. Alleluia.
d) Response to Universal Prayer
e) Offertory: ES #173: “OUR BLESSING CUP”
f) Communion: ES #125 “JESUS CHRIST IS RISEN TODAY”
b) RESPONSORIAL PSALM: (Ps 22:8-9, 17-18, 19-20, 23-24) - EM page 114
R. My God, my God, why have you abandoned me?
R. Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! Sao Chúa đã bỏ con?
All who see me scoff at me; they mock me with parted lips, they wag their heads: "He relied on the LORD; let him deliver him, let him rescue him, if he loves him." R. Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". R.
Indeed, many dogs surround me, a pack of evildoers closes in upon me; They have pierced my hands and my feet; I can count all my bones. R. Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. R.
They divide my garments among them, and for my vesture they cast lots. But you, O LORD, be not far from me; O my help, hasten to aid me. R. Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. R.
I will proclaim your name to my brethren; in the midst of the assembly I will praise you: "You who fear the LORD, praise him; all you descendants of Jacob, give glory to him; revere him, all you descendants of Israel!" R. Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" R.