CẨN THẬN KHI ĐI MÁY BAY ĐƯỜNG DÀI. Dr. Tôn Thất Hứa
Chỉ một tích tắc sau khi chiếc máy bay khổng lồ Boeing 747 đáp xuống phi trường quốc tế Frankfurt của Đức Quốc, trực thăng cứu cấp đã chờ sẵn và bốc ngay Cô Emma C. 28 tuổi, vừa đi nghỉ hè tại Sydney trở về, vào bệnh viện cấp cứu. Tất cả mọi cố gắng của toán cứu cấp và bác sĩ, y tá bệnh viện không thể cải tử hoàn sinh người nữ hành khách trẻ tuổi bất hạnh này.
Lý do tử vong: cô bị nhồi máu vào hai buồng phổi (Lungenembolie - embolie pulmonaire - plumonary embolism) do cục máu đông của hai cẳng chân dội ngược lên. Một cơn bệnh chết người gần như 100% mặc dù trình độ phát triển y học hiện đại.
Đưa ra một đề tài đang tranh luận là làm thế nào để phòng ngừa một sự thay đổi của đông máu trong cơ thể con người đưa đến sự việc đột tử.
- phòng ngừa và làm chận đứng sự đông máu đang di chuyển trong mạch máu. - điều hành cơ chế tạo cục máu đông.
Để dễ hiểu rõ vấn đề, bài viết được thu gọn trong một số câu vấn đáp cụ thể để giải thích những dữ kiện nêu trên như sau:
*1- Một chuyến bay đường xa nguy hiểm như thế nào?
Có một điều chắc chắn là thường một chuyến bay đường dài vì sự ngồi bất động trong suốt cuộc hành trình là nguyên nhân đưa đến sự đông máu ở phần hạ chi. Bao nhiêu hành khách trong số hàng triệu triệu lữ hành hằng năm khắp năm châu bốn biển gặp phải nghịch cảnh nói trên, chúng ta không thể tìm ra được một con số chính xác.
Những phi trường quốc tế London, Paris, Lyon, Sydney hay Frankfurt đã phúc trình qua nhiều báo cáo y khoa nhưng sự thật vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Lý do chính là tai biến do thành hình cục máu đông ở phần dưới cơ thể không phát hiện sớm khi máy bay đáp xuống mặt đất, mà triệu chứng lâm sàng của tai biến mạch máu lại thường xảy ra khoảng 14 ngày sau đó.
Do đó thống kê của các sân bay quốc tế không thể mang ra ánh sáng những con số chính xác được. Ngoài ra còn có những bản báo cáo thiếu dữ kiện không đem lại lợi ích chung cho khách hàng... Vậy điểm rõ ràng mà mỗi hành khách trước khi lên máy bay cần phải biết: những chuyến bay trên những đoạn đường xa, thời gian càng dài là yếu tố chắc chắn tạo nên sự đông máu mà chúng ta không ai có thể lường trước được.
*2- Sự nguy hiểm do đâu mà ra?
Chúng ta chỉ biết rõ là chức năng đưa đến sự đông máu thường lại xảy ra do chỗ ngồi quá hẹp của hạng bình dân (Economy-Class) . Chính vì sự kiện ngẫu nhiên này nên người ta đã không ngần ngại và đã nhầm lẫn khi viết: triệu chứng lâm sàng của sự đông máu ở hạng du lịch bình dân (Economy-Class- Syndrom). Sự nhận xét trên không đúng 100% vì ngay cả những hành khách hạng nhất, hạng thương gia cũng bị tai biến mạch máu nêu trên. Nguyên nhân được chứng minh rõ ràng là biến chứng tạo nên dosự tạo thành cục máu nhỏ rồi phát triển và lan dần rộng ra do các cục máu tụ kết hợp lại.
Hiện tượng máu tụ được hiểu biết là do thiếu cử động trong chuyến bay và 2 cẳng chân xếp lại do tư thế ngồi trên máy bay. Hai nhận xét này thực ra rất đúng cho các hành khách máy bay ở hạng bình dân, do chỗ ngồi khá chật chội.
*3 -Hành khách di chuyển bằng xe buýt, tàu hoả và xe hơi trên chặng đường dài có gặp phải tai biến tuần hoàn trên không?
Có, hành khách xử dụng các phương tiện du lịch vừa kể trên cũng có thể xảy ra tai biến tạo thành cục máu rồi đưa đến đông máu tĩnh mạch ở hạ chi. Tuy nhiên một điểm phải được chú ý thêm nữa là trên máy bay, khí thông trong buồng hành khách rất khô.
Ví dụ trong chuyến bay, quý vị để một chén cơm nóng thì chỉ cần 1 tiếng đồng hồ sau cơm sẽ khô như chén cơm chiên. Tác động "phụ" của không khí khô khan trong buồng hành khách sẽ "hút thêm" nước từ các mạch máu của cơ thể bạn trong hành trình, sự kiện "máu cô lại" chính là yếu tố quyết định nguyên nhân bắt đầu xuất hiện những cục máu đông nhỏ nằm ở phần hạ chi của con người.
Ngoài sự khô ráo, áp lực khí trong buồng máy bay cũng giảm xuống tạo thêm một yếu tố "rút nước" trong máu rồi tích lũy vào lớp mô. Đó cũng là một lý do đưa đến máu "khô" rồi... cục máu đông sẽ dễ thành hình. Nguy hiểm hơn nữa là trong chuyến bay, hành khách theo thói quen lại thích uống rượu 'không mất tiền'. Chất rượu sẽ làm mạch máu nở rộng thêm ra; máu lưu hành trong cơ thể chảy chậm hơn cho nên hổ trợ mạnh mẽ cho sự đông máu được nhanh hơn. Sự di chuyển bằng máy bay như vậy nguy hiểm hai lần nhiều hơn bằng xe búyt hay ô tô. Di chuyển bằng xe lửa được xem như là an toàn hơn hết.
* 4-Nhóm hành khách nào có nhiều nguy cơ tai biến mạch máu?
Tất cả hành khách đi trên các chuyến bay đều có thể gặp phải, bất luận già hay trẻ. Tuy nhiên những hành khách cao niên, phái nữ thì khả năng bị tai biến dễ gặp hơn... Ngay cả những lực sĩ cũng bị tai biến mạch máu, như trường hợp 3 lực sĩ trong phái đoàn Anh Quốc đã bị tai biến đông máu trên đường đến tham dự thế vận hội Sydney trong năm vừa qua. Ngoài ra vẫn có một số hành khách tương đối "dễ gặp phải" tai biến hơn so với những nhóm người khác...
Dear Sisters and Brothers in Christ,
Good morning!
Welcome to Saint Dominic’s Parish Church for the Holy Sunday Mass celebration.
As we celebrate this Fourth Sunday of Lent Year C today, the message of the Word
of God comes to us in an exceptional way. It is the Gospel story that touches our
heart and moves our mind to a turning point of our life. Saint Luke tells us how much
God the Father loves us, His disobedient, ungrateful, and sinful children. God
patiently waits for our coming back home, mercifully forgives us our sins, if only we
repent of our wrongdoings and stand up and throw ourselves into His wide-open
loving arms.
We pray hard in this Holy Mass for the blessing of unfailing confidence in God’s
merciful love and of determined commitment to putting into everyday practice the
lesson of mercy and forgiveness.
Kindly all stand for the entrance hymn.
b) To the Readings
- First Reading: Jos 5:9a.10-12
The worship of God itself is the celebration of God’s endless and unbreakable love of
humanity. God’s mercy and love should be remembered through generations to
come.
- Second Reading: 2 Cor 5:17-21
Seriously sinful though, we are forgiven and reconciled to God the merciful Father
through the Suffering, Death, and Resurrection of Jesus Christ, His Beloved Son,
and our Lord and Savior. Saint Paul urges each and one of us to be ambassador for
the Divine Mercy Mission.
B. Hymns For Holy Mass
a) ES #78 - “Led By The Spirit”
b) EM page 92
c) ES #153 - “Our Blessing Cup”
d) ES #168 - “Taste And See”
e) ES #76 - “The Glory Of These Forty Days”
R. Taste and see the goodness of the Lord. R. Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
I will bless the LORD at all times;
his praise shall be ever in my mouth.
Let my soul glory in the LORD;
the lowly will hear me and be glad. R. Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì
Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. R.
Glorify the LORD with me,
let us together extol his name.
I sought the LORD, and he answered me
and delivered me from all my fears. R. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa,
ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người
đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. R.
Look to him that you may be radiant with joy,
and your faces may not blush with shame.
When the poor one called out, the LORD heard,
and from all his distress he saved him. R. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã
nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. R.
A reading from the Book of Joshua
The LORD said to Joshua,
“Today I have removed the reproach of Egypt from you.”
While the Israelites were encamped at Gilgal on the plains of Jericho,
they celebrated the Passover
on the evening of the fourteenth of the month.
On the day after the Passover,
they ate of the produce of the land
in the form of unleavened cakes and parched grain.
On that same day after the Passover,
on which they ate of the produce of the land, the manna ceased.
No longer was there manna for the Israelites,
who that year ate of the yield of the land of Canaan.
BÀI ĐỌC I: Gs 5, 9a. 10-12
Bài trích sách Giosuê.
(9a) Sau khi dân Ít-ra-en vào Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập.”
(10) Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày
mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-
khô. (11) Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là
bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. (12) Hôm sau,
không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái
Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của
đất Ca-na-an.
RESPONSORIAL PSALM: Ps 34:2-3, 4-5, 6-7
R. Taste and see the goodness of the Lord. R. Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy.
I will bless the LORD at all times;
his praise shall be ever in my mouth.
Let my soul glory in the LORD;
the lowly will hear me and be glad. R. Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì
Chúa
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. R.
Glorify the LORD with me,
let us together extol his name.
I sought the LORD, and he answered me
and delivered me from all my fears. R. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa,
ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người
đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. R.
Look to him that you may be radiant with joy,
and your faces may not blush with shame.
When the poor one called out, the LORD heard,
and from all his distress he saved him. R. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã
nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. R.
“Merciful and Gracious Is The Lord, Slow in Anger and Abounding in Kindness” (Ps 103:8)
Dear Sisters and Brothers in Christ,
We have just listened to the Word of God through the four readings:
1.The first Reading taken from the Book of Genesis, telling us how the Lord God came to the rescue of His People Israel from their slavery in Egypt. The message is clear: God never distances Himself from the lives of all those who trust in Him. The poor, the oppressed are often termed by the economic and political powerful as voiceless because the victims of arrogant rulers, who have cried for justice for years, their lungs out, will end up languishing in injustice and suffering. No, they are wrong because the Lord God said to the great Prophet Moses: “I have witnessed the affliction of my people in Egypt and have heard their cry of complaint against their slave drivers, so I know well what they are suffering. Therefore I have come to rescue them from the hands of the Egyptians.” The poor and suffering are, for this reason, not the voiceless, for Their cry reaches the ear of the merciful Father in heaven.
2.Saint Paul in the second Reading taken from his First Letter to the Corinthians sends a stern warning to those who do evil things. Looking back to the journey of the Israelites from the land of exile to the Promised Land, none of those failing to observe God’s commandments were allowed to enter it.
3.One cannot help, to this point, but wander how we should properly reconcile divine justice and divine mercy. God will not let any sin go unpunished. But, the sinner’s repentance and conversion to God will surely make the merciful and forgiving Father happier. The parable of the fig tree assures us of God’s extreme patience in waiting for criminals to reform their previous lives full of evildoings in order to bear fruit in a new way of life, led by the Spirit of love and peace.
4.It seems that sinners should not take advantage of God’s kindness and compassion to persist in doing further evil things but on the contrary have to fully respond to His call to repentance and reform in order to be worthy of divine mercy and forgiveness.
Lâu nay con cũng được tin từ Cha và các bạn trong Ban Đại Diện cho biết có gửi quà cho con và các bạn ở đây. Con thấy mọi người nhộn nhịp vui vẻ diện áo đồng phục, chụp hình đủ kiểu làm con cũng nôn nao lắm ạ. Hôm nay đi làm về, con nhận được thùng quà to lắm, mừng rỡ nhận ra quà của Cha và ca đoàn. Lâu nay chỉ được ngắm nhìn mọi người diện đồng phục qua hình ảnh, nay được tận tay cầm lấy, con vui quá lấy ra thử liền, con thấy vừa vặn và đẹp lắm ạ. Con rủ rê anh Ca ra chụp hình ngay luôn, xin mọi người đừng cười con, lớn nhỏ gì nhận được quà cũng vui lắm phải không ạ, đó là tấm áo, chiếc ba lô do Cha và mọi người cùng cực khổ thiết kế, đặt may, sắp xếp....con ước gì con cũng được đứng trong hàng với mọi người chụp hình kỷ niệm. Nhưng khó quá, thôi cho con xin phép được góp mặt từ xa. Món quà của Cha và ca đoàn là kỷ niệm quý giá lắm, Cha va mọi người vẫn nhớ và thương yêu chúng con, những đứa con ở xa. Con xin thay mặt các bạn cảm ơn Cha, cảm ơn chú Nhựt đã mang quà giúp chúng con, cảm ơn Ban đại diện, cảm ơn các bạn thiết kế, cảm ơn tất cả mọi người đã góp sức vì ca đoàn. Đã cho chúng con, những đứa con xa nhà được chung vui và nối kết cùng gia đình Thánh Linh. Sắp đến Lễ Phục Sinh, con xin chúc Cha, chúc gia đình Thánh Linh một mùa Phục Sinh tràn đầy Hồng Ân Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa và Mẹ Maria luôn giữ gìn và ban cho ngừoi Cha kính yêu của chúng con nhiều sức khoẻ. Con xin gửi đến cả nhà tâm tình yêu thương mùa Phục Sinh.
Luôn thương nhớ Cha, nhớ các cô, các anh chị và các bạn thật nhiều.
Con chào Cha và cả nhà ạ.
Thảo Linh
Thương gửi cả nhà, hình con ‘ diện’ đồng phục mới nhận được ạ.
==//==
Thăm Con và cả nhà,
Mừng Con đã nhận được quà. Cha và anh chị em Ca Đoàn Thánh Linh thương gia đình Con nhiều lắm. Xin Chúa và Mẹ luôn gin giữ chúng con bình an, khỏe mạnh và hạnh phúc.
Dear Sisters and Brothers in Christ,
Good morning!
Welcome to Saint Dominic’s Church for the celebration of the Sunday Holy Mass on
the Third Sunday of Lent, Year C.
The Word of God for this Sunday celebration tells us about the mercy of God, Who
came to bring salvation to humanity. God is merciful and patient with our weakness
and imperfection so that we may go back to Him for forgiveness and new life.
We pray hard in this Holy Mass for the blessing of repentance of our sin and
conversion to God’s love.
Please all stand for the entrance hymn.
b) To the Readings
- First Reading: Ex 3:1-8.13-15
The Lord God appeared to the great Prophet Moses and introduced Himself as “I Am
Who Am”, the meaning of which we could understand by witnessing countless good
things performed by Him Who remains always the merciful, loving and forgiving God
throughout the History of Salvation.
- Second Reading: 1 Cor 10:1-6.10-12
Saint Paul teaches us, Christians, to learn from the lives of previous generations to
be, on the one hand, strongly built up on the faith in Christ, our Lord and Savior; and,
on the other, to stay fully aware of our weakness in order not to fall victims of pride
and arrogance.
B. Hymns For Holy Mass
a) ES #82 - “Somebody’s Knockin’ At Your Door”
b) EM Page 87
c) ES 98 - “All Good Gifts”
d) ES #214 - “In Him Alone”
e) ES #77 - “Lord, Who Throughout These Forty Days”
R. The Lord is kind and merciful. R. Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót.
Bless the LORD, O my soul;
and all my being, bless his holy name.
Bless the LORD, O my soul,
and forget not all his benefits. R. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh
Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. R.
He pardons all your iniquities,
heals all your ills,
He redeems your life from destruction,
crowns you with kindness and compassion. R. Lạy Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người
chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. R.
The LORD secures justice
and the rights of all the oppressed.
He has made known his ways to Moses,
and his deeds to the children of Israel. R. Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức.
Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. R.
Merciful and gracious is the LORD,
slow to anger and abounding in kindness.
For as the heavens are high above the earth,
so surpassing is his kindness toward those who fear him. R. Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng
cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ
kính sợ Người. R.
A reading from the Book of Exodus
Moses was tending the flock of his father-in-law Jethro,
the priest of Midian.
Leading the flock across the desert, he came to Horeb,
the mountain of God.
There an angel of the LORD appeared to Moses in fire
flaming out of a bush.
As he looked on, he was surprised to see that the bush,
though on fire, was not consumed.
So Moses decided,
“I must go over to look at this remarkable sight,
and see why the bush is not burned.”
When the LORD saw him coming over to look at it more closely,
God called out to him from the bush, “Moses! Moses!”
He answered, “Here I am.”
God said, “Come no nearer!
Remove the sandals from your feet,
for the place where you stand is holy ground.
I am the God of your fathers, “ he continued,
“the God of Abraham, the God of Isaac, the God of Jacob.”
Moses hid his face, for he was afraid to look at God.
But the LORD said,
“I have witnessed the affliction of my people in Egypt
and have heard their cry of complaint against their slave drivers,
so I know well what they are suffering.
Therefore I have come down to rescue them
from the hands of the Egyptians
and lead them out of that land into a good and spacious land,
a land flowing with milk and honey.”
Moses said to God, “But when I go to the Israelites
and say to them, ‘The God of your fathers has sent me to you,’
if they ask me, ‘What is his name?’ what am I to tell them?”
God replied, “I am who am.”
Then he added, “This is what you shall tell the Israelites:
I AM sent me to you.”
God spoke further to Moses, “Thus shall you say to the Israelites:
The LORD, the God of your fathers,
the God of Abraham, the God of Isaac, the God of Jacob,
has sent me to you.
“This is my name forever;
thus am I to be remembered through all generations.”
BÀI ĐỌC I: Xh 3, 1-8a. 13-15
Bài trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Môsê chăn chiên cho ông nhạc là Giêtrô, tư tế xứ Mađian. Ông
lùa đoàn chiên qua sa mạc, đến núi Horeb là núi của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện ra
với ông trong ngọn lửa cháy từ giữa bụi gai. Ông nhìn thấy bụi gai bốc lửa, nhưng
không bị thiêu rụi. Môsê nói: "Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này, vì sao bụi gai không
bị thiêu rụi".
Thiên Chúa thấy ông lại xem, từ giữa bụi gai Người gọi ông: "Môsê! Môsê!" Ông thưa:
"Dạ con đây!" Chúa nói: "Ngươi đừng đến gần đây. Hãy cởi dép ở chân ra, vì chỗ
ngươi đang đứng là nơi thánh". Chúa lại nói: "Ta là Thiên Chúa của Tổ phụ ngươi.
Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp". Môsê che
mặt, vì không dám nhìn Thiên Chúa. Chúa nói: "Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai-
cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than kẻ đốc công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của
chúng, nên Ta xuống cứu chúng thoát khỏi tay người Ai-cập và đưa ra khỏi đất ấy đến
miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật".
Môsê thưa với Thiên Chúa rằng: "Này con sẽ đến với con cái Israel và bảo họ: Thiên
Chúa của tổ phụ anh em đã sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: 'Tên Người là gì?',
con sẽ nói sao với họ?" Thiên Chúa nói với Môsê: "Ta là Đấng Tự Hữu". Chúa nói:
"Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: 'Đấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em' ".
Thiên Chúa lại nói với Môsê: "Ngươi sẽ bảo con cái Israel thế này: 'Thiên Chúa của tổ
phụ anh em, Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp
sai tôi đến với anh em'. Đó là danh Ta cho đến muôn đời, đó là danh Ta phải ghi nhớ
qua mọi thế hệ".
RESPONSORIAL PSALM: Ps 103: 1-2, 3-4, 6-7, 8, 11
R. The Lord is kind and merciful. R. Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót.
Bless the LORD, O my soul;
and all my being, bless his holy name.
Bless the LORD, O my soul,
and forget not all his benefits. R. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và toàn thể con người tôi, hãy chúc tụng danh
Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Người. R.
He pardons all your iniquities,
heals all your ills,
He redeems your life from destruction,
crowns you with kindness and compassion. R. Lạy Người đã thứ tha cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật nguyền. Người
chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân, Người đội đầu ngươi bằng mão từ bi, ân sủng. R.
The LORD secures justice
and the rights of all the oppressed.
He has made known his ways to Moses,
and his deeds to the children of Israel. R. Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho những người bị ức.
Người tỏ cho Môsê được hay đường lối, tỏ công cuộc Người cho con cái Israel. R.
Merciful and gracious is the LORD,
slow to anger and abounding in kindness.
For as the heavens are high above the earth,
so surpassing is his kindness toward those who fear him. R. Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân. Nhưng
cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn siêu việt hơn thế trên kẻ
kính sợ Người. R.
Chúng con nguyện xin Thánh Cả Giuse-Bạn Trăm Năm Đức Maria chuyển cầu cùng Thiên Chúa ban cho quý Cha: ơn sức khỏe, ơn khôn ngoan, ơn bình an để các Ngài thi hành tốt những gì Thiên Chúa trao phó. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Dear Sisters and Brothers in Christ,
Good morning!
Welcome to Saint Dominic’s Parish Church for the Sunday Holy Mass celebration.
As we celebrate the Second Sunday of Lent today, we listen to the Gospel story
telling us the changing of the Lord’s appearance, a sign of His divine nature hidden
beneath His humanity.
We pray in this Holy Mass for God’s blessing of faith in Christ the Lord and Savior
Who alone can bring us the new life of the resurrection, with true and lasting peace,
love and happiness.
Please all stand for the entrance hymn.
b) To the Readings
- First Reading: Gn 15:5-12.17-18
The Lord God made a covenant—a pact of love and care—with the human race
through the Patriarch Abraham whose faith earned him the blessing of
righteousness.
- Second Reading: Phil 3:17-4:1
Saint Paul teaches us how to conduct our lives on earth in accordance with the great
glory awaiting us in God’s Kingdom.
B. Hymns For Holy Mass
a) ES #73 - “Turn To Me And Be Saved”
b) EM page 85
c) ES #291 - “The God Of All Grace”
d) ES #327 - “We Belong To You”
e) ES #88 - “From The Depths We Cry To Thee”
R. The Lord is my light and my salvation. R. Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào?
The LORD is my light and my salvation;
whom should I fear?
The LORD is my life's refuge;
of whom should I be afraid? R. Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn còn sợ người nào?
Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa? R.
Hear, O LORD, the sound of my call;
have pity on me, and answer me.
Of you my heart speaks; you my glance seeks. R. Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại.
Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ:
hãy tìm kiếm Thánh Nhan R.
Your presence, O LORD, I seek.
Hide not your face from me;
do not in anger repel your servant.
You are my helper: cast me not off. R. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tới Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con. R.
I believe that I shall see the bounty of the LORD
in the land of the living.
Wait for the LORD with courage;
be stouthearted, and wait for the LORD. R. Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ thấy được ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy trông cậy vào Chúa. R.
A reading from the Book of Genesis
The Lord God took Abram outside and said,
"Look up at the sky and count the stars, if you can.
Just so," he added, "shall your descendants be."
Abram put his faith in the LORD,
who credited it to him as an act of righteousness.
He then said to him,
"I am the LORD who brought you from Ur of the Chaldeans
to give you this land as a possession."
"O Lord GOD," he asked,
"how am I to know that I shall possess it?"
He answered him,
"Bring me a three-year-old heifer, a three-year-old she-goat,
a three-year-old ram, a turtledove, and a young pigeon."
Abram brought him all these, split them in two,
and placed each half opposite the other;
but the birds he did not cut up.
Birds of prey swooped down on the carcasses,
but Abram stayed with them.
As the sun was about to set, a trance fell upon Abram,
and a deep, terrifying darkness enveloped him.
When the sun had set and it was dark,
there appeared a smoking fire pot and a flaming torch,
which passed between those pieces.
It was on that occasion that the LORD made a covenant with Abram,
saying: "To your descendants I give this land,
from the Wadi of Egypt to the Great River, the Euphrates."
BÀI ĐỌC I: St 15,5-12.17-18
Bài trích sách Sáng thế
(5) Khi ấy, Thiên Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử
đếm các vì sao, xem có đếm nổi không.” Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế
đó!” (6) Ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính.
(7) Người phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người
Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” (8) Ông thưa: “Lạy Đức Chúa, làm sao mà
biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (9) Người phán với ông: “Đi kiếm cho ta một con
bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ
câu non.” (10) Ông kiếm cho người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối
diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. (11) Mãnh cầm xà xuống trên các con vật bị
giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi.
(12) Lúc mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh
hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông.
(17) Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn
đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. (18) Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với
ông Áp-ram như sau:
“Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này,
từ song Ai-cập đến Sông Cả, tức song Êu-phơ-rát.”
RESPONSORIAL PSALM: Ps 27:1, 7-8, 8-9, 13-14
R. The Lord is my light and my salvation. R. Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào?
The LORD is my light and my salvation;
whom should I fear?
The LORD is my life's refuge;
of whom should I be afraid? R. Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
tôi còn còn sợ người nào?
Chúa là thành lũy bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa? R.
Hear, O LORD, the sound of my call;
have pity on me, and answer me.
Of you my heart speaks; you my glance seeks. R. Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại.
Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ:
hãy tìm kiếm Thánh Nhan R.
Your presence, O LORD, I seek.
Hide not your face from me;
do not in anger repel your servant.
You are my helper: cast me not off. R. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan Ngài,
xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tới Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy,
chính Ngài là Đấng phù trợ con. R.
I believe that I shall see the bounty of the LORD
in the land of the living.
Wait for the LORD with courage;
be stouthearted, and wait for the LORD. R. Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ thấy được ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.
Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy trông cậy vào Chúa. R.