Tìm Kiếm

26 tháng 9, 2022

Hymns for Sunday Holy Mass (October 2, 2022)

   a) Entrance:ES #190: “WE WILL FOLLOW”


b) Prayer Of The Faithful Response:

Lord, Hear Our Prayer!

c) Offertory: ES #240 : “CHRISTIFY”


d) Communion: ES #181 “THIS BREAD THAT WE SHARE”


e) Recessional: ES #381: “MAGNIFICAT”



The Holy Spirit Choir


Twenty-seventh Sunday in Ordinary Time, Year C (October 2, 2022)


Reading 1 (Hab 1:2-3; 2:2-4)

A reading from the Book of the Prophet Habakkuk

How long, O LORD?  I cry for help
 but you do not listen!
 I cry out to you, "Violence!"
 but you do not intervene.
 Why do you let me see ruin;
 why must I look at misery?
 Destruction and violence are before me;
 there is strife, and clamorous discord.
 Then the LORD answered me and said:
 Write down the vision clearly upon the tablets,
 so that one can read it readily.
 For the vision still has its time,
 presses on to fulfillment, and will not disappoint;
 if it delays, wait for it,
 it will surely come, it will not be late.
 The rash one has no integrity;
 but the just one, because of his faith, shall live.

The word of the Lord.

Bài Ðọc I: (Kb 1, 2-3; 2, 2-4)

“Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín”.

Trích sách Tiên tri Khabacúc.

Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.
Chúa đáp lại tôi rằng: “Hãy chép điều con thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng, để đọc được dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết, và sẽ chẳng hư không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín”.

Ðó là lời Chúa.

Responsorial Psalm (Ps 95:1-2, 6-7, 8-9) EM page 241

R. (8) If today you hear his voice, harden not your hearts.
Ðáp: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Các ngươi đừng cứng lòng!” (c. 8).

Come, let us sing joyfully to the LORD;
 let us acclaim the Rock of our salvation.
Let us come into his presence with thanksgiving;
 let us joyfully sing psalms to him.
R. If today you hear his voice, harden not your hearts.
Xướng: Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.

Come, let us bow down in worship;
 let us kneel before the LORD who made us.
For he is our God,
 and we are the people he shepherds, the flock he guides.
R. If today you hear his voice, harden not your hearts.
Xướng: Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.

Oh, that today you would hear his voice:
 "Harden not your hearts as at Meribah,
 as in the day of Massah in the desert,
Where your fathers tempted me;
 they tested me though they had seen my works."
R. If today you hear his voice, harden not your hearts.
Xướng: Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: “Ðừng cứng lòng như ở Meriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta; họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. 

Reading 2 (2 Tm 1:6-8, 13-14)

A reading from the second Letter of Saint Paul to Timothy

Beloved:
I remind you, to stir into flame
the gift of God that you have through the imposition of my hands.
For God did not give us a spirit of cowardice
but rather of power and love and self-control.
So do not be ashamed of your testimony to our Lord,
nor of me, a prisoner for his sake;
but bear your share of hardship for the gospel
with the strength that comes from God.
Take as your norm the sound words that you heard from me,
in the faith and love that are in Christ Jesus.
Guard this rich trust with the help of the Holy Spirit
that dwells within us.

The word of the Lord.

Bài Ðọc II: (2 Tm 1, 6-8, 13-14)

“Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timô-thêu.

Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Ðức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Ðấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia (1 Pt 1:25)

R. Alleluia, alleluia.
The word of the Lord remains forever.
This is the word that has been proclaimed to you.
R. Alleluia, alleluia.

Alleluia: (1 Pr 1:25)

Alleluia, alleluia! – Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng. – Alleluia.

Gospel (Lk 17:5-10)

A reading from the holy Gospel according to Saint Luke

The apostles said to the Lord, "Increase our faith."
The Lord replied,
"If you have faith the size of a mustard seed,
you would say to this mulberry tree,
'Be uprooted and planted in the sea,' and it would obey you.

"Who among you would say to your servant
who has just come in from plowing or tending sheep in the field,
'Come here immediately and take your place at table'?
Would he not rather say to him,
'Prepare something for me to eat.
Put on your apron and wait on me while I eat and drink.
You may eat and drink when I am finished'?
Is he grateful to that servant because he did what was commanded?
So should it be with you.
When you have done all you have been commanded,
say, 'We are unprofitable servants;
we have done what we were obliged to do.'"

The Gospel of the Lord.

Phúc Âm: (Lc 17, 5-10)

“Nếu các con có lòng tin”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con.

“Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, mà trái lại không bảo nó rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống’. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'”.

Ðó là lời Chúa.



Our Lady Of The Most Holy Rosary (October 2, 2022)



First Reading (Acts 1: 12-14)

A reading from the Acts of the Apostles

After Jesus had been taken up into haeven, the Apostles returned to Jerusalem from the mount called Oliver, which is near Jerusalem, a Sabbath day’s journey away. When they entered the city they went to the upper room where they were staying, Peter and John and James and Andrew, Philip and Thomas, Bartholomew and Matthew, James son of Alphaeus, Simon the Zealot, and Judas son of James. All these devoted themselves with one accord to prayer, together with some women, and Mary the mother of Jesus, and his brother.

The word of the Lord.

Bài đọc I (CV 1: 12-14)

Bấy giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày Sa-bát. Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

Responsorial Psalm (Lk 1: 46-47, 48-49, 50-51, 52-53, 54-55 )

R/ The Almighty has done great things for me, and holy is his name.
R/ Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn.

My soul proclaims the greatness of the Lord, my spirit rejoices in God my savior. R/
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.R/

For the has looked upon his hand maid’s lowliness, behold, from now on will all ages call me blessed. The mighty one has done great things for me, and holy is his name. R/
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!R/

His mercy is from age to age to those who fear him. He has shown might with his arm, dispersed the arrogant of mind and heart. R/
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.R/

He has thrown down the rulers from their thrones but lifted up the lowly. The hungry he has filled with good things, the rich he has sent away empty. R/
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.R/

He has helped Israel his servant, remembering his mercy, according to his promise to our fathers, to Abraham and to his descendants forever. R/
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.R/

Second Reading (Gal 4: 4-7)

A reading from the Letter of Saint Paul to the Galatians

But when the time had fully come, God sent his son, born of a woman, born under  law, to redeem those under law, that we might receive the full rights of sons. Because you are son, God sent the Spirit of his Son into our hearts, the Spirit who calls out, “Abba, Father!”. So you are no longer a slave, but a son, and since you are a son, God has made you also an heir.

The word of the Lord.

Bài đọc II (Gl 4: 4-7)

Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.

Alleluia, alleluia (Lk 1:28)

Hail Mary, full of grace, the Lord is with you, blessed are you among women.

Alleluia: (Lc 1, 28)

Alleluia, alleluia! – Kính chào Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. – Alleluia.

The Gospel (Lk 1: 26-38)

A reading from the holy Gospel according to Saint Luke.

The angel Gabriel was sent from God to a little town of Galilee called Nazareth, to a virgin betrothed to a man named Joseph, of the house of David, and the virgin’s name was Mary. And coming to her, he said, “Hail, full of grace! The Lord is with you”. But she was greatly troubled at what was said and pondered what sort of greeting this might be. Then the angel said to her, “Do not be afraid, Mary, for you have found favor with God. Behold, you will conceive in your womb and bear a son, and you shall name him Jesus. He will be great and will be called the Son of the Most High, and the Lord God will give him the throne of David his father, and he will rule over the house of Jacob forever, and of his kingdom there will be no end.” But Mary said to the angel, “How can this be, since I have no relations with a man?” And the angel said to her in reply, “The holy Spirit will come upon you, and the power of the Most High will overshadow you. Therefore the child to be born will be called holy, the Son of God.  And behold, Elizabeth, your relative, has also conceived a son in her old age, and this is the sixth month for her who was called barren; for nothing will be impossible for God.” Mary said, “Behold, I am the handmaid of the Lord. May it be done to me according to your word.” Then the angel departed from her.

The Gospel of the Lord.

Phúc âm (Lc 1, 26-38)

“Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.

Ðó là lời Chúa.



25 tháng 9, 2022

Twenty-sixth Sunday in Ordinary Time C (September 25, 2022)

 FIRST READING


SECOND READING


HOMILY - FR. FRANCIS XAVIER NGUYEN VAN NHUT, O.P.


PRAYER OF THE FAITHFUL



The Holy Spirit Choir


23 tháng 9, 2022

Ấn 3 huyệt sau ở tai để giúp cải thiện thị lực

 Đức Tuệ  

Các huyệt vị ở tai có thể giúp cải thiện bệnh cận thị...   

Có 3 huyệt vị thần kỳ trên vành tai, mà nếu ấn thường xuyên thì sẽ nhanh chóng cải thiện thị lực...
Đừng xem thường xoa bóp bấm huyệt khi điều trị cận thị. Hiệu quả của nó không hề kém gì dùng thuốc. 

1. Ấn huyệt Cảnh Tam dưỡng cho mắt sáng

Người bị cận thị có thể day ấn huyệt Cảnh Tam. Cột sống cổ có 7 đốt, chứa 8 đôi dây thần kinh, trong số ấy có đôi dây thần kinh số 3 có liên quan đến thị lực, gọi là “thần kinh cổ 3”. “Thần kinh cổ 3” có giải phẫu bám sát vào xương chẩm của đầu, nơi đó vừa hay là chỗ thị giác quy tụ.

Tương ứng với dây thần kinh này là huyệt Cảnh Tam ở vành tai. Cụ thể là điểm nằm trên đối bình tai - sụn hình cánh hoa trên dái tai. Bất kể khi bạn đọc sách hay xem ti vi, bạn đều có thể dùng đầu ngón tay để day ấn nhẹ nhàng huyệt Cảnh Tam này.

Huyệt Cảnh Tam giúp cải thiện thị lực... 

2. Ấn huyệt Thần kinh thị giác để nhìn rõ mọi thứ

Thần kinh thị giác là đôi dây thần kinh sọ số 2, có liên quan đến các vấn đề như độ nhạy cảm, thị lực, thị trường của thị giác. Tại mép bên dưới đối bình tai chia làm 3 phần bằng nhau, phần thứ nhất chính là huyệt “Thần kinh thị giác”.

Dùng ngón trỏ của cả 2 tay day ấn nhẹ nhàng. Thường xuyên ấn chỗ này, sẽ thấy mọi thứ nhìn rõ ràng hơn.

Huyệt Thần kinh thị giác giúp cải thiện thị lực... 



3. Ấn huyệt Nhãn Cơ để giữ phần thần của con ngươi

Cơ mắt điều khiển sự di chuyển lên xuống, sang trái, sang phải của nhãn cầu, khiến cho con ngươi có thể linh hoạt chuyển động, nhìn gần nhìn xa.

Có một huyệt vị ở trong hõm dưới cùng của vành tai, gọi là huyệt Nhãn Cơ. Ấn huyệt vị này có thể kích thích các cơ bám cạnh nhãn cầu, khiến nó linh hoạt hơn.

Nhắm mắt lại và ấn vào ba huyệt đạo này, một lúc sau, mở mắt ra sẽ thấy rõ ràng hơn rất nhiều. Các huyệt đạo này rất tốt cho việc điều trị bệnh cận thị hoặc các bệnh về mắt khác.

Huyệt Nhãn Cơ giúp cải thiện thị lực...

Cận thị đa phần nên bổ tỳ! Thang thuốc từ 4 vị dược liệu

Cơ mi của mắt vốn có thể co lên và co lại tùy ý, nếu cơ mi căng quá không giãn ra được thì sẽ bị cận thị.

Tạng tỳ chủ về cơ nhục, khi tỳ bị hư tổn, sự điều tiết cơ nhục của nhãn cầu sẽ bị mất tính đàn hồi. Nếu như một đứa trẻ có nhiều nguy cơ bị cận thị thì nên thường xuyên bổ tỳ cho đứa trẻ. Có một cách dùng thuốc đơn giản là đem các vị thuốc hoàng kỳ, bạch truật, đại táo, hoài sơn cùng sắc chung rồi uống. Thứ này có thể bổ tỳ, cũng giúp cho sức hoạt động của nhãn cầu tốt lên.

Ngoài ra, còn có một phương thuốc khác để điều trị cận thị, gọi là Định chí hoàn. Khi tôi phân tích phương thuốc này, phát hiện nó còn có thể cải thiện trí nhớ. Bài thuốc này gồm các vị nhân sâm, phục linh, thạch xương bồ và viễn chí - các vị nghiền thành bột, rồi dùng nước mật làm thành hoàn. Nhân sâm có tác dụng bổ khí, phục linh bổ thận thấm thủy, viễn chí và xương bồ đều giúp ninh tâm an thần.

Dùng Định chí hoàn trong thời gian dài sẽ cải thiện trí nhớ, giúp tập trung chuyên chú vào công việc. Chính vì vậy nên đọc sách có thể dễ dàng ghi nhớ được kiến thức, không cần mất công xem đi xem lại, cũng sẽ tránh bị cận thị. 

2 loại thói quen gây hại cho mắt dẫn tới cận thị

Hiện tại trẻ em học tập thời gian lâu, rất dễ bị cận, có liên quan phần lớn đến 2 loại tình trạng sau:
Đầu tiên là thói quen cầm bút. Trẻ em học cách sử dụng bút từ khi rất nhỏ và nhiều bé quen cầm bút gần đầu bút do ngón tay không đủ lực. Khi viết theo cách này, mắt không thể nhìn thấy vì vậy bé cúi đầu thấp xuống để nhìn.

Ngoài ra, khi đọc sách, trẻ nhỏ sẽ lười biếng. Lười cũng không sao, có thể nghỉ ngơi một lát. Nhưng một số trẻ không làm được điều này, trẻ đọc một cách uể oải, cúi thấp đầu, nhìn rất gần sách, thậm chí dán chặt mắt vào đó.

Những thói quen này sẽ khiến mắt trẻ phải trường kỳ nhìn vật ở khoảng cách gần, cơ mi luôn bị căng, lâu ngày sẽ bị cận thị.

Luyện cơ mi, cải thiện cận thị

Làm thế nào để rèn cho cơ mi? Trong  cổ thư có một bộ phương pháp dạy người ta bắn tên, trong sách viết rằng bạn cần rèn luyện thị lực khi bắn cung, phương pháp đó là: đối mặt với mũi tên hàng ngày và nhìn thẳng vào đầu mảnh của nó cho đến khi bạn có thể nhìn thấy đầu mũi tên rất lớn. Nó to bằng quả bóng; sau đó bắt đầu tập nhìn những thứ nhỏ hơn, như đầu nhọn của hạt lúa mì, đến khi bạn có thể nhìn thấy nó to bằng quả bóng, thì việc bắn cung nhất định phi thường chuẩn xác.

Bạn có thể sử dụng cách tương tự với phương pháp trên để tập luyện cho mắt. Trước tiên hãy đưa mắt nhìn ra xa, chẳng hạn như nhìn vào đỉnh của cột thu lôi trên một tòa nhà. Chờ cho đến khi tiêu điểm của mắt rất chính xác, sau đó nhìn vào vật gì đó cách khoảng bằng bàn chân hoặc gần hơn, chẳng hạn như đầu ngón tay của bạn. Sau khi tiêu điểm tụ lại và nhìn được rõ nét, hãy nhìn lại vật ở xa. 

Bằng cách này, trước hết hãy tập trung vào những vật ở xa, sau đó tập trung vào những vật ở gần, giúp cơ mi co lại và thư giãn nhanh chóng, theo thời gian có thể tăng cường sức mạnh cho cơ mi và cải thiện độ cận thị. Nhìn mọi thứ một lần nữa, bạn có thể thấy rõ ràng trong nháy mắt.


BẤM HUYỆT LÀM DỊU CƠN ĐAU TRÊN CƠ THỂ

 Nhà thuốc Đỗ Minh Đường 


����Bấm 2 phút huyệt LV3 giúp bạn làm dịu các cơn đau trên cơ thể
Có những cơn đau mà bạn chỉ cần nhấn vào một huyệt nhất định, cơn đau đó sẽ biến mất mà chẳng cần đến viên thuốc giảm đau làm gì. Đó chính là huyệt LV3 - huyệt đạo giúp làm dịu các cơn đau trên cơ thể, đồng thời chữa trị nhiều bệnh khác.
❓Làm sao để xác định được huyệt LV3?
��Đầu tiên, nó nằm ở trên bàn chân, giữa ngón chân cái và ngón chân trỏ, cách khe hai ngón này khoảng 2cm.
��Sau khi tìm thấy vị trí huyệt LV3, dùng ngón tay nhấn một lực nhẹ, sau đó massage ngược chiều kim đồng hồ khoảng 2-3 giây. Tạm dừng trong 5 giây, lặp lại toàn bộ quá trình trong khoảng 2 phút.
��Dùng ngón tay nhấn một lực nhẹ, sau đó massage ngược chiều kim đồng hồ khoảng 2 đến 3 giây.
����Những tác động tích cực cho sức khỏe mà việc bấm huyệt LV3 mang đến
- Giảm đau lưng, đau đầu
- Giảm đau bụng vào kì kinh nguyệt, chuột rút do kinh nguyệt.
- Điều chỉnh chức năng gan
- Giải tỏa căng thẳng, giúp bạn kiểm soát cơn giận.
- Giảm đau thần kinh tọa, trị chứng mất ngủ, kiểm soát lo lắng.
- Điều chỉnh huyết áp, hỗ trợ các vấn đề về tiêu hóa.
- Giải quyết các vấn đề rối loạn thị giác.
---------------------
Để tìm hiểu kỹ hơn về phương pháp bấm huyệt chữa bệnh, hãy đặt câu hỏi cho chúng tôi để được tư vấn kỹ hơn.
Mọi thắc mắc xin liên hệ:
Mọi thắc mắc xin liên hệ:
☯️ NHÀ THUỐC DÒNG HỌ ĐỖ MINH ĐƯỜNG
��Cơ Sở Hà Nội: số 37A ngõ 97 – Văn Cao – Ba Đình – Hà Nội.
☎️ Hotline: 0984 650 816 - 0963 302 349
�� Cơ Sở Thành phố Hồ Chí Minh: Số 100 đường Nguyễn Văn Thương, P. 25, Q. Bình Thạnh, TP.HCM
☎️ Hotline: 0938 449 768 - 0932 088 186
�� Website: dominhduong.com
�� Website: dominhduong.org


Các Cụ Saigon xưa ,trở về dĩ vảng

CÁC CỤ CỦA SÀI GÒN XƯA!

 
------------------------------------

Bài thật hay, đọc tới đâu nhớ lại thời niên thiếu tới đó

Tác giả có một trí nhớ thật phi thường!

Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội…. luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.

Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.

Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : “nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.

Sau khi “chạy giặc” hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.

Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại.

Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ “S” sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.

Trong lúc “tản cư” tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp “Douzième” trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi.”Trường Chasseloup” xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ “Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời gian để cạo mủ cao su !

Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.

Như vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ chánh cống” và “dân Sài Gòn một trăm phần trăm”, lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước năm mươi tư” mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên Việt Nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…

Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).

Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ “préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông “Moreau”, tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”, có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc vườn “Bờ Rô” nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên “Ông Thượng” là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.

Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard : hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d’Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.

Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phậthiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam<đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.

Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lớp, nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).

Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một “đứa con” của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d’Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.

Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).

Rồi cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp đóng tại đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.

Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là “Kinh Lớn” hay “Kinh Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là “Bùng Binh” trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã Sảnh, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier, nay là công trường Lam Sơn, để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.

Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước “Nhà Hát Tây”, cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường “Keo Su” dài tới Nhà Thờ Đức Bà ; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque d’Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay “Hồ Con Rùa”.

Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa giữa” vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ “e” chớ không phải với chữ “é” vì là người gốc Ý Đại Lợi.

Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm “Le Jaccario” đậu gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.

Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắn “giàn thun” trên mấy cây soài nên bị “Ông Từ” rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt “Ánh”. Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học “trường tây” nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung” cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?

Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.

Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.

Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người Việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài “Sử Gia” buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng “Tả Quân Lê Văn Duyệt”, đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.

Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.

Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson De Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập ; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.

Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng “Lăng Cha Cả”, có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 “Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine” và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cương …

Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.

Những tên đường Sài Gòn trong bài theo thời cuộc

Thời pháp thuộc

Sau 1954

 

Sau 1975

Albert Premier

Đinh Tiên Hoàng

Đinh Tiên Hoàng

Amiral Roze

Trương Công Định

Trương Định

Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau

Trần Hoàng Quân

Nguyễn Chí Thanh

Arras

Cống Quỳnh

Cống Quỳnh

Aviateur Garros, Rolland Garros

Thủ Khoa Huân

Thủ Khoa Huân

Barbé

Lê Quý Đôn

Lê Quý Đôn

Blancsubé, rue Catinat prolongée

Duy Tân

Phạm Ngọc Thạch

Bonard

Lê Lợi

Lê Lợi

Carabelli

Nguyễn Thiệp

Nguyễn Thiệp

Catinat

Tự Do

Đồng Khởi

Champagne

Yên Đỗ

Lý Chính Thắng

Charner

Nguyễn Huệ

Nguyễn Huệ

Chasseloup Laubat

Hồng Thập Tự

Nguyễn Thị Minh Khai

Chemin des Dames

Nguyễn Phi

Lê Anh Xuân

Colonel Boudonnet

Lê Lai

Lê Lai

Dixmude

Đề Thám

Đề Thám

Đỗ Hữu Vị, Hamelin

Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Khúc Kháng

Douaumont

Cô Giang

Cô Giang

Ducos

Triệu Đà

Ngô Quyền

Duranton

Bùi Thị Xuân

Bùi Thị Xuân

Espagne

Lê Thánh Tôn

Lê Thánh Tôn

Eyriaud Des Vergnes

Trương Minh Giảng

Trần Quốc Thảo

Frédéric Drouhet

Hùng Vương

Hùng Vương

Frère Louis

Võ Tánh

Nguyễn Trãi

Frères Guillerault

Bùi Chu

Tôn Thất Tùng

Gallieni, rue des Marins

Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh

Trần Hưng Đạo 1, Trần Hưng Đạo 2

Garcerie

Duy Tân

Phạm Ngọc Thạch

Général Lizé

Phan Thanh Giản

Điện Biên Phủ

Georges Guynemer

Võ Di Nguy

Hồ Tùng Mậu

Huỳnh Quan Tiên

Hồ Hảo Hớn

Hồ Hảo Hớn

Jaccario

Tản Đà

Tản Đà

Jauréguiberry

Ngô Thời Nhiệm

Ngô Thời Nhiệm

La Grandière

Gia Long

Lý Tự Trọng

Lacaze

Nguyễn Tri Phương

Nguyễn Tri Phương

Lacote

Phạm Hồng Thái

Phạm Hồng Thái

Larégnère

Đoàn Thị Điểm

Trương Định

Legrand De La Liraye

Phan Thanh Giản

Điện Biên Phủ

Léon Combes

Sương Nguyệt Ánh

Sương Nguyệt Ánh

Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle

Công Lý

Nam Kỳ Khởi Nghĩa

Marins

Đồng Khánh

Trần Hưng Đạo 2

Miss Cavell

Huyền Trân Công Chúa

Huyền Trân Công Chúa

Nancy

Cộng Hòa

Nguyễn Văn Cừ

Nguyễn Tấn Nghiệm, rue de Cầu Kho

Phát Diệm

Trần Đình Xu

Nguyễn Văn Đưởm

Nguyễn Văn Đưởm

Nguyễn Văn Nghĩa

Ohier

Tôn Thất Thiệp

Tôn Thất Thiệp

Paul Blanchy

Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng

Pavie, Hui Bôn Hoả

Lý Thái Tổ

Lý Thái Tổ

Pellerin

Pasteur

Pasteur

Phan Thanh Giản

Ngô Tùng Châu

Lê Thị Riêng

Pierre Flandin

Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan

Pierre Pasquier

Minh Mạng

Ngô Gia Tự

Place Eugène Cuniac

C.Trường Quách Thị Trang

C.Trường Quách Thị Trang

Place Maréchal Joffre