Tìm Kiếm

28 tháng 3, 2016

Second Sunday of Easter (or Sunday of Divine Mercy) (Apr 3, 2016)

Kết quả hình ảnh cho Sunday of Divine Mercy

First Reading:  Acts 5:12-16

Many signs and wonders were done among the people
at the hands of the apostles.
They were all together in Solomon’s portico.
None of the others dared to join them, but the people esteemed them.
Yet more than ever, believers in the Lord,
great numbers of men and women, were added to them.
Thus they even carried the sick out into the streets
and laid them on cots and mats
so that when Peter came by,
at least his shadow might fall on one or another of them.
A large number of people from the towns
in the vicinity of Jerusalem also gathered,
bringing the sick and those disturbed by unclean spirits,
and they were all cured.

Bài đọc 1: Acts 5:12-16


12 Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ bàn tay các Tông Đồ. Và tất cả tập họp tại hành lang Solomon. 13 Không một ai khác dám nhập đoàn với họ, nhưng dân chúng ca tụng họ. 14 Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông. 15 Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó.16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.

Responsorial Psalm Ps 118:2-4, 13-15, 22-24

R. Give thanks to the Lord for he is good, his love is everlasting.
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.



Let the house of Israel say,
His mercy endures forever.”
Let the house of Aaron say,
His mercy endures forever.”
Let those who fear the LORD say,
His mercy endures forever.” R
Ít-ra-en hãy nói lên rằng: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” A-ha-ron hãy nói lên rằng: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” Ai kính sợ Đức Chúa hãy nói lên rằng: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” R

I was hard pressed and was falling,
but the LORD helped me.
My strength and my courage is the LORD,
and he has been my savior.
The joyful shout of victory
in the tents of the just. R
Tôi bị đẩy xô nhưng Chúa cứu tôi. Chúa là sức mạnh và sự can trường của tôi, chính Người là Đấng Cứu Độ tôi. Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân. R

The stone which the builders rejected
has become the cornerstone.
By the LORD has this been done;
it is wonderful in our eyes.
This is the day the LORD has made;
let us be glad and rejoice in it. R
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy hoan hỷ vui mừng. R

Second Reading:  Rev 1:9-11a, 12-13, 17-19

I, John, your brother, who share with you
the distress, the kingdom, and the endurance we have in Jesus,
found myself on the island called Patmos
because I proclaimed God’s word and gave testimony to Jesus.
I was caught up in spirit on the Lord’s day
and heard behind me a voice as loud as a trumpet, which said,
“Write on a scroll what you see.”
Then I turned to see whose voice it was that spoke to me,
and when I turned, I saw seven gold lampstands
and in the midst of the lampstands one like a son of man,
wearing an ankle-length robe, with a gold sash around his chest.

When I caught sight of him, I fell down at his feet as though dead.
He touched me with his right hand and said, “Do not be afraid.
I am the first and the last, the one who lives.
Once I was dead, but now I am alive forever and ever.
I hold the keys to death and the netherworld.
Write down, therefore, what you have seen,
and what is happening, and what will happen afterwards.”

Bài đọc II: Rev 1:9-11a, 12-13, 17-19

9 Tôi là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giê-su.10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn11 nói rằng: "Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a."12 Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13 Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng.
17 Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: "Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này.

Alleluia Jn 20:29

R. Alleluia, alleluia.

You believe in me, Thomas, because you have seen me, says the Lord;
blessed are they who have not seen me, but still believe!

R. Alleluia, alleluia.

Gospel Jn 20:19-31

On the evening of that first day of the week,
when the doors were locked, where the disciples were,
for fear of the Jews,
Jesus came and stood in their midst
and said to them, “Peace be with you.”
When he had said this, he showed them his hands and his side.
The disciples rejoiced when they saw the Lord.
Jesus said to them again, “Peace be with you.
As the Father has sent me, so I send you.”
And when he had said this, he breathed on them and said to them,
“Receive the Holy Spirit.
Whose sins you forgive are forgiven them,
and whose sins you retain are retained.”

Thomas, called Didymus, one of the Twelve,
was not with them when Jesus came.
So the other disciples said to him, “We have seen the Lord.”
But he said to them,
“Unless I see the mark of the nails in his hands
and put my finger into the nailmarks
and put my hand into his side, I will not believe.”

Now a week later his disciples were again inside
and Thomas was with them.
Jesus came, although the doors were locked,
and stood in their midst and said, “Peace be with you.”
Then he said to Thomas, “Put your finger here and see my hands,
and bring your hand and put it into my side,
and do not be unbelieving, but believe.”
Thomas answered and said to him, “My Lord and my God!”
Jesus said to him, “Have you come to believe because you have seen me?
Blessed are those who have not seen and have believed.”

Now Jesus did many other signs in the presence of his disciples
that are not written in this book.
But these are written that you may come to believe
that Jesus is the Christ, the Son of God,
and that through this belief you may have life in his name.

Phúc Âm: Jn 20:19-31

19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! " 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." 24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em."
27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!"
29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này.
31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

(wwwmigrate.usccb.org)

(www.loinhapthe.com)